( Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Chánh Thiện
do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2006 – PL 2550 )
A. DẪN NHẬP
Lục độ là pháp môn tu đặc thù, pháp môn cao nhất trong sự hành trì của đạo Phật, đòi hỏi hành giả phải an trú tâm vào cái không tính của chân như, cái trạng thái mà kinh Kim Cang đã dạy “ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ”. Khi tu theo pháp môn này hành giả không còn khái niệm phân biệt “ Nhân, ngã, bĩ, thử ” mà hòa đồng vào cái lý mầu nhiệm, giải thoát của đạo Phật, cái thể tính chân không của vạn hữu.
B. NỘI DUNG :
I. ĐỊNH NGHĨA :
Độ tiếng Phạn là Ba-La-Mật (Pãramitã) có nghĩa là vượt qua, từ mê mờ qua giác ngộ, từ đau khổ qua cảnh giới an vui, từ sanh tử qua Niết bàn.
Lục độ là 6 hạnh có thể đưa hành giả và chúng sanh vượt qua mê mờ đau khổ thẳng tới cảnh giới an vui thanh tịnh. Sáu hạnh là : Bố thí Ba La Mật, trì giới Ba La Mật, nhẫn nhục Ba La Mật, tinh tấn Ba La Mật, thiền định Ba La Mật và trí tuệ Ba La Mật.
II. HÀNH TƯỚNG :
1. Bố thí Ba La Mật :
a. Định danh :
Bố là cùng khắp; Thí là cho, trao tặng. Bố thí là đem của tư hữu của mình đem cho cùng khắp tất cả mọi người không phân biệt giới hạn người hay vật, thân hay sơ. Hể thấy ai còn thiếu thốn vật gì, nếu sẵn có, đều bình đẵng giúp tất cả không luyến tiếc.
b. Thành phần của Bố thí Ba La Mật :
Gồm có 3 phương thức sau đây :
– Tài thí : tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho. Tài thí cũng có 2 phương thức :
+ Nội tài : là những vật chí thân quý báu nhất của mình như thân mạng, có nghĩa là khi cần thiết vẫn xã thân mình để cứu giúp người khác không kể sự nguy hiểm đến thân mạng nếu có. Đây là phương pháp bố thí cao nhất mà chỉ có những người giàu lòng từ bi, mới làm được ( trong các câu chuyện tiền thân của Đức Thế tôn )
+ Ngoại tài : là những vật thường dùng trong đời sống của mình như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, tư trang, tiền bạc . . .
– Pháp thí : là đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy của chư Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác, hoặc y theo giới luật của Phật để hành trì trong đời sống hằng ngày nhằm làm khuôn mẫu cho mọi người bắt chước bỏ ác làm thiện. Pháp thí là một phương thức bố thí có một giá trị lớn lao, nó có tác dụng huân tập về mặt tinh thần mang đến nhân lành không những cho kiếp này mà cả những kiếp sau, không kể nghèo khó hay giàu sang, lao động hay trí thức.
– Vô uý thí : Trong cuộc sống, sự sợ hải trước bao nhiêu điều đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra là một tâm lý khổ đau nhất, chiếm hết quá phân nữa thời gian của kiếp người. Do đó khi thực hiện Vô úy thí là mang lại cho họ sự bình tĩnh tuyệt đối trước mọi sự kiện bằng chính hành động của bản thân, nhằm tạo cho họ một tâm an tịnh hầu xử dụng lý trí suy xét của từng sự kiện, phù hợp với tinh thần khế lý khế cơ của đức Phật. Để qua các giáo lý thích hợp đó tâm họ không còn xao động và bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Tóm lại tu hạnh vô úy thí khi hành giã đi dến đâu cũng đem đến một sự bình tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.
c. Công năng của hạnh Bố thí Ba la mật :
Nói đến hạnh Bố thí Ba la mật cần phải nhận rõ 2 điểm sau đây : Bố thí chấp tướng và Bố thí không chấp tướng :
+ Bố thí chấp tướng : là bố thí với một dụng tâm không trong sạch ( cầu danh, cầu tài lợi, vì ganh đua, vì muốn làm nhục và khinh rẽ người, vì sự lừa lọc, bất công, thiên vị ). Đây chính là bố thí thuộc về hữu lậu kết quả rất mong manh như mây nỗi giữa hư không gặp gió thổi thì tan biến.
+ Bố thí không chấp tướng : là bố thí Ba la mật : với một dụng ý trong sạch, đúng với ý nghĩa của nó, bố thí với tâm từ bi bình đẳng, bố thí với tâm không thấy kẽ nhận và người cho, không tự cao, tự đại. Bố thí với một tâm địa như vậy sẽ được phước trí vô lậu thanh tịnh, mới đúng nghĩa là Bố thí Ba la mật.
Ngoài ra bố thí thì phát sanh các công năng sau đây :
+ Diệt lòng tham lam ích kỷ
+ Đem lại ấm no
+ Phát triễn chánh trí vì tu hạnh Pháp thí.
+ Đem lại sự bình tĩnh vì tu hạnh Vô úy thí.
2. Trì giới Ba La Mật:
a. Định danh :
Trì giới Ba la mật là một hạnh tu để đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn nghiêm chỉnh và trọn vẹn giới luật mà đức Phật đặt ra, tự thân thọ lãnh.
b. Thành phần của giới luật :
Có thể chia ra làm 3
– Giới tại gia : là những giới dành cho những người cư sĩ từ Ngũ giới đến Thập thiện giới, Bồ Tát giới tại gia hoặc Bát quan trai giới.
– Giới xuất gia : là giới dành riêng cho hàng xuất gia gồm có 5 chúng:
+ Sa di và Sa di ni giữ 10 giới
+ Thức xoa ma ni phải giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.
+ Tỳ kheo giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo ni giữ 348 giới.
– Giới Đạo và Tục thông hành : là giới Bồ Tát mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng Đại thừa phải thọ trì sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Đây là những giới mà người tu hạnh trì giới Ba la mật phải giữ gìn cho đúng, còn gọi là Tam tu tình giới :
+ Nhiếp luật nghi giới (Bất tác chư ác) : là 6 giới trọng và 28 giới khinh (của Bồ tát tại gia) để giữ gìn và ngăn ngừa những tội lỗi về thân, khẩu, ý.
+ Nhiếp thiện pháp giới (Phụng hành chúng thiện): là quyết tâm thực hành những việc thiện có lợi cho mình và cho người như 10 điều thiện và 4 nhiếp pháp.
+ Nhiêu ích hữu tình giới (Hóa độ chúng sanh) : làm các điều lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng cách quyết tâm tu hạnh từ, bi., hỷ, xả.
c. Công năng của hạnh Trì giới Ba La Mật :
Cũng như hạnh Bố thí cũng có 2 loại :
+ Trì giới chấp tướng : là trì giới với hình thức bên ngoài nhưng bên trong thì nhiễm ô (vì hiếu thắng, cầu danh, khinh khi người phạm giới, bị ép buộc, miễn cưỡng), thiếu thành tâm và tự đánh lừa mình.
+ Trì giới không chấp tướng : là thuận theo tự tánh, không nhiễm trước mà làm điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, còn nhìn nhận trì giới là bổn phận luôn luôn nhiếp tâm cho thuần thục để đến khi không biết rằng mình có trì giới. Đây là tính chất trì giới Ba la mật : không chấp có sự tướng.
Ngoài ra tu hạnh trì giới có các công năng :
+ Ba nghiệp thanh tịnh : không sanh các tà niệm
+ Các thiện công đức phát sanh.
+ Nêu cao giá trị : không phạm các điều xấu xa, thô bỉ.
+ Người và vật kính yêu : không làm thương tổn đến mọi người, mọi vật.
3. Nhẫn nhục Ba La Mật :
a. Định danh :
Là chịu đựng nhẫn nhịn đến chỗ cùng tột cho đến khi “tâm ý” cũng không ngấm ngầm nỗi dậy phản đối, đứng trước mọi nghịch cảnh lòng vẫn lắng đọng như không. Nhẫn nhục là phương pháp đối trị với tâm sân hận của con người.
b. Thành phần của nhẫn nhục :
Có 3 thành phần:
+ Thân nhẫn : đối với nghịch cảnh của thời tiết, của hoàn cảnh, của bệnh tật, của đối xử hành hạ về thân xác.
+ Khẩu nhẫn : Thân đã chịu nhẫn không chống lại mà miệng cũng không rên la, mắng chưỡi, phàn nàn, nguyền rủa.
+ Ý nhẫn : Không căn hờn, oán giận, không nỗi lên ý nghĩa phản đối, không có tư tưởng trả thù.
Ngoài ra trong 3 thành phần nhẫn này còn có các tên gọi để chỉ danh những hành động cụ thể như :
– Thuận sanh nhẫn : Không kiêu căng tự đắc trước sự tán than, cung kính.
– Nghịch sanh nhẫn : Không bực tức thù ghét trước sự chưởi mắng, đánh đập.
– Nội pháp nhẫn : Bị phiền não, tham sân áp bức nhưng tự tâm vẫn thanh tịnh sáng suốt không bị nhiễm ô.
– Ngọai pháp nhẫn : Bị những cảnh đói rét khiến thân thể phải chịu đựng nhưng vẫn không than phiền hay có thái độ phẩn uất.
Và 2 loại nhẫn nhục :
+ Nhẫn nhục có chấp tướng : là nhẫn nhục vì sợ quyền thế, vì đang nằm trong một hoàn cảnh bất lợi, nhẫn nhục vì cầu danh và lợi quyền, vì khinh bỉ đối thủ. Tất có hình thức nhẫn nhục này vì còn do dục vọng, tham sân si mạn, nghi thúc đẩy.
+ Nhẫn nhục không chấp tướng : là do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, tật đố, tham lam, tự biết quay về quán tưởng khi sự việc xảy đến. Đây là các hình thức nhẫn nhục nhằm mục đích trau dồi “Tứ vô lượng tâm”, nhẫn từ ngoài thân đến tâm.
c. Công năng của Nhẫn nhục :
+ Không làm những việc vô ý thức
+ Bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh, biến cố xảy ra trong cuộc sống.
+ Không trụy lạc theo năm dục.
4. Tinh tấn Ba La Mật :
a. Định danh :
Tinh tấn là không ô nhiểm, không thối xuất, chuyên tâm nhất trí tiến hướng cầu đạo giải thoát và giác ngộ. Ở đây tinh tấn hiểu theo nghĩa đạo pháp là thực hiện “ Tứ chánh cần ” .
b. Thành phần của Tứ chánh cần :
Gồm có 4 điều:
+ Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sanh.
+ Tinh tấn diệt cho nhanh các điều ác đã phát sanh.
+ Tinh tấn làm cho các điều lành phát sanh.
+ Tinh tấn làm cho các điều lành đã phát sanh tăng trưởng.
Tinh tấn có 2 lọai :
+ Tinh tấn có chấp tướng : là thực hiện sự siêng năng cần mẫn bên ngoài với một dụng tâm không trong sạch như vì danh, vì lợi, vì kiêu căng . . .
+ Tinh tấn không chấp tướng : là thực hiện với một tâm nguyện sám hối tội lỗi đã làm để quyết tâm sữa chữa để giúp mình và giúp người thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
c. Công năng của hạnh Tinh tấn :
+ Dũng mãnh hăng hái : diệt trừ được tánh rụt rè, biếng nhác.
+ Không thối xuất : Không chán nản lùi bước trước những hoàn cảnh chướng duyên.
+ Tiến gần đến đạo giải thoát .
5. Thiền định Ba La Mật :
a. Định danh :
Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất, không cho tâm tán loạn để tâm thể được vắng lặng và tâm dụng được mạnh mẽ hầu quan sát và suy nghiệm chân lý. Thiền định là danh từ ghép của 2 từ Thiền (tiếng Phạn gọi là Thiền na) và từ Định (tiếng Phạn gọi là Tam Muội)
b. Các loại thiền định :
+ Quán hởi thở : Đây là pháp ngồi thiền cho hàng sơ cơ, tức là tập theo dỏi hơi thở vào hơi thở ra, để cho tâm tập trung vào hơi thở, không nghĩ bông lung với mục đích đối trị sự tán loạn của tâm.
+ Quán hạnh từ bi : Dùng tâm từ bi, quán sát những nổi khổ của chúng sanh, mục đích để đối trị với lòng sân hận.
+ Quán sự không thanh tịnh : Quán sát con người đều do ngũ uẩn tạo thành với sanh, già, bệnh, tư, để không còn tham đắm vào sắc dục.
+ Quán về pháp nhân duyên : Quán sát vạn pháp đều giả hợp, do nhân dyên mà có, khi hết nhân duyên thì tan rã, để đối trị với lòng tham mê vật chất, tiền tài, danh vọng, của cải.
+ Quán theo niệm Phật : Quán công đức, tướng hảo của chư Phật đểdứt bỏ phiền não.
Cũng là Ngũ đình tâm quán, thay vì quán niệm Phật thì Quán về 18 giới đều không có “ngã, pháp” để đối trị ngã chấp.
c. Công năng của pháp môn Thiền định :
+ Loại trừ bớt lòng tham dục : nhờ quán thanh tịnh.
+ Trừ nóng giận : nhờ quán từ bi
+ Phá si mê : nhờ quán nhân duyên
+ Ngăn các phiền não : nhờ quán niệm Phật
+ Diệt loạn tâm : nhờ quán hơi thở.
+ Khai phát được trí tuệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật
6. Trí huệ Ba La Mật :
a. Định danh :
Là thể tánh sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo, tinh tường đến nơi đến chốn không thể sai lầm.
Trí huệ là danh từ ghép của 2 từ “Trí” (phiên âm từ chữ Phạn là Phãna, có nghĩa là quyết đoán) và từ “Huệ” (phiên âm chữ Phạn là Bát nhã, có nghĩa là giãn trạch). Theo Phật học Trung hoa định nghĩa thì : Trí là biết Tục đế và Huệ là biết Chơn đế hay có thể nói : Trí là thể tánh sáng suốt trong sạch và Huệ là diệu dụng xét soi tự tại.
b. Các loại trí huệ :
Về cơ cấu thì trí huệ có 2 lọai
– Căn bản trí : là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sanh đã có sẳn, nhưng bị phiền não nhiễm ô che lấp nên chưa phát chiếu ra được.
– Hậu đắc trí : là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định. Theo Duy thức học sau khi đạt đến địa vị giác ngộ, nghĩa là có được “hậu đắc trí” thì 8 thức được chuyển thành 4 trí :
+ Đại viên cảnh trí : Thức thứ 8 (A-lại-da) có tác dụng chấp trì sanh mạng và chủng tử, khi đạt đến địa vị vô lậu.
+ Bình đẵng tánh trí : Thức thứ 7 (Mạt-na) có tác dụng là chấp ngã
+ Diệu quan sát trí : Thức thứ 6 (ý thức) có tác dụng phân biệt.
+ Thành sở tác trí : Năm thức còn lại (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiêt, thân).
Tuy vậy để đạt được Trí huệ, đức Phật đã chế ra nhiều pháp môn tu, trong đó pháp môn Văn-Tư-Tu là được nhắc nhở và thực hành nhiều nhật với các tên gọi :
+ Văn huệ : là do tai nghe âm thanh, mắt thấy văn tự mà hiểu được nghĩa lý.
+ Tư huệ : là do trí suy nghĩ, tìm tòi để rõ được nghĩa lý, hiểu được sự thật.
+Tu huệ : là do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý mà giác ngộ chứng được sự thật.
c. Công năng của trí huệ
+ Diệt trừ phiền não : Phiền não là do mê lầm phát sinh, khi trí huệ đã có thì mê lầm phải mất và phiền não đoạn tận. Như ánh sáng đẩy lùi bóng tối.
+ Chiếu sáng sự vật : Sự vật bị vô minh che khuất, nay trí hệ phát chiếu thì thực tánh của sự vật được phơi bày như thật. Như ánh sáng mặt trời lên thì màn sương tan biến.
+ Thể nhập chân lý : Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì tưởng chừng vạn pháp như sai biệt. Nay nhờ trí huệ hiển lộ thấy rõ được tâm, cảnh đều không nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
C. SUYNGHIỆM :
Trừ mê diệt khổ là nguyên vọng duy nhất của người con Phật. Muốn đạt được nguyện vọng ấy cần phải cương quyết thực hành sáu hạnh độ, chỉ vì chỉ có 6 hạnh độ mới có đủ công năng đưa chúng ta đến bến bờ giác ngộ, giải thoát.
Với chúng ta những con người thuộc hàng sơ cơ, nên khó có thể hành trì ngay tức thời 6 hạnh độ, tuy thế phải ghi nhớ lời Phật dạy : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, do đó mình cũng có khả năng giải thoát và giác ngộ, nếu tự mình chí tâm thì có thể tu hành để phát triễn khả năng giải thoát và giác ngộ sẵn có của mình để từ đó dùng mọi phương tiện nhiếp hóa và giải khổ cho tất cả chúng sanh.
D. TU TẬP :
Muốn đạt được quả vị giải thoát, điều tiên quyết ngay từ bây giờ tự mỗi cá nhân chúng ta phải phát triển tín tâm trên con đường bước vào tu tập 6 hạnh độ bằng cách :
1. Phát Bồ đề tâm :
Tức là thực hiện bốn lời thề nguyện rộng lớn :
+ Chúng sanh không số lượng thề nguyện đều độ khắp.
+ Phiền não không cùng tận thề nguyện đều dứt sạch.
+ Pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học.
+ Phật đạo không gì hơn thệ nguyện được viên thành.
2. Xem thường tài sản và tính mạng :
Phải mở rộng cõi lòng vì sự lợi lạc chúng sanh làm trọng, phải vui lòng đảm nhận mà không một lời oán than trách móc hay tiếc nuối.
3. Xem chúng sanh đau khổ như chính mình đau khổ :
Phải nhận rõ chúng sanh và mình đều cùng chung một bản thể vô tận tuy có khác hình dáng, tư tưởng, vì giọt nước tuy nhỏ nhưng thể chất vẫn đồng với thể chất của cả đại dương. Phải ý thức được sự sống của mọi loài cũng tương quan mật thiết như thế, để có quan niệm : chúng sanh đau khổ tức mình đau khổ, cứu chúng sanh tức là tự cứu chính mình.