Chùm Thơ: Tham Bái Phật Tích Ấn Độ của Phổ Đồng

LÂM-TỲ-NI
(Nơi Đản sinh Thái tử Tất-đạt-đa)

Phật tại thế thời
Ngã đẳng trầm luân
Kim đắc nhơn thân
Phật dĩ diệt hậu.”

Vì nguyện lực Người chôn vùi cát bụi
A-tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh
Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
Ứng mộng vàng thác chất một lần sanh.

Vào một sớm Người về bên núi tuyết
Đem nguyện lành trải dấu bước nhân gian
Nâng tay nhẹ Lâm-tỳ-ni hoa nở
Từng bước chân lay động cõi ba ngàn.

Chim vui hót nhạc trời vang trổi khúc
Khắp nhơn thiên mở hội đón tin mừng
Ca-tỳ-la trở mình trong hoan lạc
Đón người về trong niệm khúc ca vang.

Và từ đó Người hoàn thành nguyện lực
Gieo mầm xanh tuệ giác khắp mọi nhà
Nhổ khổ đau ban cho đời an lạc
Để bây giờ còn lại vết đi xa.

Trăng vẫn hiện bên hồ xưa in dấu
Ghi lại lần tắm gội bến thiên thu
Cảnh còn đấy bên thời gian hoang vắng
Người ra đi vĩnh viễn khói sương mù.

Con lạc bước trầm luân trong đáy mắt
Về nơi đây qua ký ức nhạt nhòa
Con cúi lạy thay vô minh vạn kiếp
Theo vết chân Người để lại luân hồi.

Đếm từng bước nắng nhòa qua mái tóc
Trắng từng giây trong một niệm thiên thu
Trời đất cũ xin về đây chứng giám
Con lòng thành xin gởi lại nghìn sau.

Phổ Đồng
Chiêm bái Lumbini (Nepal )

BỒ-ĐỀ ĐẠO TRÀNG
(Nơi thành Đạo của Thái tử Tất-đạt-đa)

Lũ chúng con lạc theo duyên thức
Đường mịt mờ vất vưởng nối tử sanh
Lấy vô minh khổ đau làm sư nghiệp
Nên luân hồi lên xuống bước loanh quanh.

Trôi lăn mãi theo dòng đời vô tận
Lạc bến bờ, từ cất bước ban sơ
Cho đến nay gặp vào thời mạt pháp
Con về đây, dấu cũ phủi bụi mờ.

Nhớ chánh pháp thời huy hoàng xưa cũ
Người ngược dòng lìa bỏ chốn phồn hoa
Chiếc bóng cô thân rừng hoan tầm đạo
Giải thoát khổ đau, sống chết, bệnh già.

Từ tứ Thiền, rồi kinh qua bát Định
Đạt đến nơi vẫn trói buộc nào ngờ!
Sáu năm tr6i, tuổi mòn theo lực tận
Da bọc xương qua thử thách từng giờ.

Nhưng Đạo đâu vẫn không tìm ra được
Tuệ giác càng mờ, đau khổ vẫn đeo mang
Chí chuyển hướng, qua tìm cầu đối chiếu
Giữa khổ đau và khoái lạc hai đường.

Người quyết định xa lìa hai thái cực
Tắm gội xong nhận bát sữa đầu tiên
Từ tay nàng Tu-xà-đề dâng cúng
Vượt Ni-liên-thuyền, qua bờ khổ hạnh.

Dưới cội Bồ-đề bên sông vắng lặng
Ngồi kiết già Người lập nguyện tương lai
Cho dù thân, xương tan hay thịt nát
Sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đây!

Chí đã định, hướng tâm về định tĩnh
Lìa các duyên ưu hỷ xả niệm Thiền
Thanh tịnh trong veo nào còn cấu uế
Dọn sạch tâm cho đạt khởi ba minh .[1]

Canh đầu tiên hướng tâm về quá khứ
Biết nhiều đời thành hoại kiếp Người qua
Sống chết theo nhau nơi này nơi khác
Rõ tận tường như mới xảy hôm qua .[2]

Vào giữa đêm, bằng mắt trời thanh tịnh
Thấy chúng sanh, sinh tử như thế nào
Nghiệp tạo ra do ba căn lành dữ
Hưởng quả thế nào tùy thuộc vào nhân ?[3]

Và cuối cùng, khi sao mai vừa mọc
Người rõ khổ đau, lậu hoặc không còn
Quả nhân khổ tập, quả nhân khổ diệt
Và con đường Người vượt thoát khổ đau .[4]

Người tuyên dương ba minh tác chứng
Đạt viên thành đem đạo quả xiển dương
Rồi theo duyên Người đi xa vĩnh viễn
Để bây giờ lưu lại dấu dư hương.

Con về đây với mong cầu tìm lại
Chút hương xưa Người để lại luân hồi
Qua xúc cảnh con cầm lòng không được
Lệ ngưng tròng trên đôi mắt hắt hiu.

Con đảnh lễ với lòng thành dâng hiến
Gieo chút duyên vô sự dưới chân Người
Mong mai sau ở đời luôn gặp Phật
Xin chứng minh ghi nhận tấm lòng này.

Phổ Đồng
Chiêm bái Mahābodhi 

[1] Đạt được tứ Thiền
[2]Túc mạng minh
[3] Thiên nhãn minh
[4] Lậu tận minh

VƯỜN LỘC DÃ
(Nơi đức Đạo sư nói Pháp lần đầu tiên)

Phật tại thế thời
Ngã đẳng trầm luân
Kim đắc nhơn thân
Phật dĩ diệt hậu.”

Migadāya, bên sông Hằng cát mỏi
Nhìn thời gian vết tích phủi bụi mờ
Con đến đây theo duyên trần lưu lạc
Muốn tìm về ươm pháp nhũ nguyên sơ.

Vì thiếu duyên nên sinh thời pháp nhược
Trôi mãi luân hồi tà kiến đảo điên
Chút thiện duyên nhặt đường dài mỏng mảnh
Xin về đây mong gieo hạt kết duyên.

Đường Trung đạo Người đã từng tác chứng
Tuyên pháp mầu trao phương tiện đầu tiên
Năm anh em bạn đường tu trước đó
Theo thời gian đạt pháp lạc vô phiền.

Đây là khổ, đây nguyên nhân của khổ
Đây là vui, đây đường đến an vui
Lìa các duyên tránh xa đường cố chấp
Thoát đôi bờ vô sự bước chân đi.

Vớ Từ đế ba lần phương tiện chuyển
Thành mười hai hành tướng để tỏ bày
Từ thấy biết và kinh qua tu chứng
Nhãn, trí, minh, giác thắng giải hiển bày.

Người tuyên dương con đường đi thoát khổ
Một con đường xa lánh các cực đoan
Từ nhận thức đến thực hành chân chánh
Qua con đường Bát chánh bước nhàn an.

Để từ đó triển khai thành vô lượng
Đối trị muôn nghìn tà pháp trói ngẳn
Lời ban sơ nghe như còn vang vọng
Giữa ngổn ngang bên phế tích điêu tàn.

Con xúc động trước tiêu điều cám cảnh
Ác độc con người, đánh tráo nhân danh [5]
Họ sợ hãi không tự mình dám nhận
Lòng vô minh tham hận của chính mình.

Con lạy Phật Người từ bi gia hộ
Cho mọi chúng sanh biết được lối về
Bỏ bến mê để quay về bờ giác
Biến nhơn gian thành cửa ngõ đi về.

Gate gate pāragate pārasaṃgate Bodhi svāhā.

Phổ Đồng
Chiêm bái Migadāya 

[5] Nhân danh giáo chủ đạo mình mà tàn sát tha nhân không theo mình và, ra sức tiêu diệt tàn phá các nền văn hóa để mở mang đất Thành mê tín của mình. Đây có phải là một tôn giáo không? Đây có phải là chân lý chăng?!!!

NÚI LINH THỨU
(Nơi đức Đạo sư Niêm vi tiếu và thuyết những bộ kinh lới Đại thừa)

Gridhrakuta mấy nghìn năm lịch sử
Bóng trải dài che mát cả Phương đông
Từ giây phút Người niêm hoa thị chúng
Tâm chảy dài vẫn mỉm nụ dòng không.

Theo dấu vết xa xưa Người để lại
Con về đây tìm lại dấu thời gian
Nơi tòa thượng sương mờ vương núi biếc
Linh Thứu sơn nước chảy động mây ngàn.

Cầu bắt nhịp qua non Kỳ-xà-quật
Đứng nơi này nghe tiếng vọng bên kia
Suối róc rách chở trăng về non Thứu
Trăng hạ huyền sương ru ngủ trời khuya.

Dư ảnh âm hao như còn hiển hiện
Vang vọng một thời ký ức hằng sa
Còn hiện tại vật dời sao thay đổi
Người ra đi là mãi mãi trăng tà!

Trăng in đáy giữa lòng khe vắng lặng
Thả nỗi buồn cho dòng suối mang đi
Nghìn năm trước nghìn năm sau có phải
Chính vô thường là thường trụ tà huy?

Phổ Đồng
Chiêm bái Gridhrakuta 02/03/2008

RỪNG CÂU-THI-NA
(Nơi đức Đạo Sư vào Niết-bàn)

Con phủi bụi đường dài qua tay mỏi
Bao kiếp rồi, phủi mãi vẫn không ra
Trời Tây Trúc rừng hoang treo bóng chếch
Cho bình minh, trời vẫn hiện trăng già.

Con về đây giữa đêm dài vắng lặng
Đại thọ Sa-la buồn thảm vô thường
Theo tiếng kệ lời vàng lên âm hưởng
Con ngậm ngùi nén giọt lệ trôi lăn.

Lệ cứ chảy nhòa lời kinh tiếng kệ
Lời dạy cuối cùng âm hưởng đâu đây
“Các tỳ-kheo! Sau khi Ta diệt độ
Các Thầy hãy lấy Giới Luật làm thầy.”

Lời cao cả nay chỉ còn chứng tích
Của dòng đời nghịch lại ý sơ tâm
Vì lợi danh Tỳ-kheo đành bán Phật
Buôn chính mình, làm nô lệ ma tâm.

Cứ phương tiện tùy duyên nhưng biến mất
Lặn hụp theo tình khõa lấp theo duyên
Đem lời vàng làm trò cười thiên hạ
Ngụy biện giải bày hí luận đảo điên!

Con buồn tủi vì thiện duyên quá mỏng
“Khi Phật ra đời con vẫn trầm luân
Nay được nên thân, Phật đà đi vắng.”
Sanh không gặp thời phải chịu gian truân.

Cảnh hiu hắt người sầu lên khóe mắt
Nội chướng ngoại ma phước cạn nghiệp dày
Chỗ Người nằm ghi dấu ấn thiên thu
Lệ tiếc thương đau đớn của nhơn thiên.

Con xúc động, rừng thiêng thôi lên tiếng
Cõi ba ngàn như lắng đọng lời kinh
Cầu sám hối, dặn lòng qua nhất niệm
Trả duyên về cho thật tướng chúng sinh.

Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā.

Phổ Đồng 

Bài khác nên xem

Thơ: Phật ở đâu xa

phuocthanh

Tuệ Sỹ – bi tráng một hồn thơ

phuocthanh

Nhạc Karaoke: Ngày Xưa Có Mẹ – Võ Tá Hân

ducquang