Chế độ ăn là vấn đề quan trọng nhất trong điều trị tiểu đường với mục đích nhằm đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng, cân bằng đủ cả về số lượng và chất lượng để có thể điều chỉnh tốt đường huyết, duy trì cân nặng theo mong muốn, đảm bảo cho người bệnh có đủ sức khỏe để hoạt động và công tác phù hợp với từng cá nhân.
Với type I, chế độ ăn thích hợp kết hợp với dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ sẽ giúp cho bệnh ổn định, hạn chế biến chứng. Với type II, chỉ cần chế độ ăn thích hợp kết hợp với hoạt động thể lực điều độ thường xuyên là kiểm soát được đường huyết giai đoạn đầu của điều trị.
Nguyên tắc cơ bản về chế độ ăn của bệnh nhân tiểu đường là hạn chế glucid (chất bột đường) để tránh tăng đường huyết sau khi ăn và hạn chế vừa phải chất béo, nhất là các acid béo bão hòa để tránh rối loạn chuyển hóa. Chế độ ăn của người bệnh phải xây dựng sao cho cung cấp cho cơ thể một lượng đường tương đối ổn định và quan trọng nhất là phải điều độ và hợp lý về giờ giấc và số lượng thức ăn trong các bữa chính và phụ.
Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng
Nhu cầu năng lượng: bệnh nhân tiểu đường cũng có nhu cầu năng lượng giống như người bình thường. Nhu cầu tăng hay giảm và thay đổi khác nhau tùy thuộc tình trạng của mỗi người. Tuy nhiên, cũng có những điểm chung như:
Tùy theo tuổi, giới.
Tùy theo loại công việc (nặng hay nhẹ).
Tùy theo thể trạng (gầy hay béo).
Mức nhu cầu năng lượng chung cho bệnh nhân điều trị tại bệnh viện là 25 kcal/kg/ngày.
Tỷ lệ giữa các thành phần sinh năng lượng:
Protein (chất đạm): lượng protein nên đạt 0,8 g/kg/ngày với người lớn. Nếu khẩu phần có quá nhiều đạm sẽ không tốt, nhất là đối với bệnh nhân có bệnh lý thận sớm. Trong chế độ dinh dưỡng của tiểu đường, tỷ lệ năng lượng do protein nên đạt 15 – 20% năng lượng khẩu phần.
Lipid (chất béo): nên ăn chất béo vừa phải và giảm chất béo động vật vì có nhiều acid béo bão hòa. Các chất béo, đặc biệt là các chất acid béo bão hòa dễ gây xơ vữa động mạch nhưng mặt khác chất béo lại cung cấp năng lượng (bù lại phần năng lượng do glucid cung cấp), vì vậy nên ăn các acid béo chưa bão hòa có nhiều trong các loại dầu thực vật như dầu mè (vừng), dầu đậu nành, dầu hướng dương… Tỷ lệ năng lượng do chất béo nên là 25% tổng số năng lượng khẩu phần và không nên vượt quá 30%. Việc kiểm soát chất béo trong khẩu phần còn giúp ngăn ngừa xơ vữa động mạch.
Glucid (chất bột đường): trong bệnh tiểu đường, đường huyết có chiều hướng tăng vọt sau khi ăn nhưng lại không chuyển hóa được để cung cấp năng lượng cho cơ thể vì thế chế độ ăn phải hạn chế chất bột đường. Nên sử dụng các loại glucid phức hợp dưới dạng các hạt và khoai củ. Hết sức hạn chế các loại đường đơn và các loại thức ăn có hàm lượng đường cao (bánh, kẹo, nước ngọt…). Tỷ lệ năng lượng do glucid cung cấp nên đạt 50 – 60% tổng số năng lượng khẩu phần.
Để bệnh nhân tiểu đường dễ dàng trong việc lựa chọn thực phẩm, người ta chia thức ăn thành từng loại có hàm lượng glucid khác nhau:
– Loại có hàm lượng glucid £ 5%: người bệnh có thể sử dụng hàng ngày, gồm các loại thịt, cá, đậu phụ (số lượng vừa phải), hầu hết các loại rau xanh còn tươi và một số trái cây ít ngọt như: dưa bở, dưa hấu, nho ta, nhót chín… (sử dụng không hạn chế).
– Loại có hàm lượng glucid từ 10 – 20%: nên ăn hạn chế (một tuần có thể ăn 2 – 3 lần với số lượng vừa phải) gồm một số hoa quả tương đối ngọt như quýt, táo, vú sữa, xoài chín, sữa đậu nành, các loại đậu quả (đậu vàng, đậu Hà Lan…).
– Loại có hàm lượng glucid từ ³ 20%: cần kiêng hay hạn chế tối đa vì khi ăn vào làm tăng nhanh đường huyết, gồm các loại bánh, mứt, kẹo, nước ngọt và các loại trái cây ngọt nhiều (mít khô, vải khô, nhãn khô…).
Với người bị tiểu đường nên chia làm nhiều bữa nhỏ để tránh tăng đường huyết nhiều sau khi ăn. Có thể chia làm 5 – 6 bữa nhỏ trong ngày. Với bệnh nhân điều trị bằng insulin tác dụng chậm có thể bị hạ đường huyết trong đêm, do vậy nên ăn thêm bữa phụ trước khi đi ngủ.