Tuệ Sĩ trên ngõ về im lặng

tamnhien_tuesy

Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng

 
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt rong rêu
 
Ta đi xuống quậy trần hoàn nổi sóng
 
Đốt mặt trời vô hạn cô liêu

Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.

Cùng đứng tên trong nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975, Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lãng.

“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.”* Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không dề :

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
 
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
 
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
 
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
 
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
 
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
 
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
 
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?
 
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
 
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
 
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
 
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Trừ thi sĩ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia Phạm Công Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.”

Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ  với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. Còn tiến sĩ kỳ tài Lê Mạnh Thát, bạn thân thiết, cận kề Tuệ Sỹ là nhà Phật học, Sử học quảng bác, lão luyện, uyên thâm, một con người quán tuyệt cổ kim, thông tuệ, siêu quần bạt chúng, cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ.

Giống như Tuệ Trung Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng, thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là.

Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ đất mộng không cùng : “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó…

Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc… Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…

Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.”**

Tuệ Sỹ nói về cõi thơ Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật vậy, cõi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa dòng sử lịch kinh hoàng của thời hiện đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét,tĩnh toạ mà phiêu bồng, đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng :

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
 
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về

Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :

Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
 
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
 
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
 
Rủ mi dài trên bến cỏ sương khô
 
Vì lêu lổng mười năm trời nói mộng
 
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
 
Một sớm nọ nghe chim buồn đổi giọng
 
Người thấy ta xô dạt bóng thiên thần
 
Đất đỏ thắm nên lòng người hớn hở
 
Đá chưa mòn sao lòng dạ trơ vơ
 
Thành phố nọ bởi sương mù nắng quái
 
Nên mười năm quên bẵng mộng giang hồ

Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng  rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :

Một con én một đoạn đường lay lất
 
Một đêm dài nghe thác đổ trên cao
 
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
 
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao
 
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
 
Từng ngày qua từng tiếng vu vơ
 
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng
 
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ
 
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
 
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
 
Con bướm nhỏ đi về trên cánh mỏng
 
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa ?
 
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
 
Người vẫn đi như nước chảy xa nguồn
 
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng
 
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm

Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào :

Một bước đường thôi nhưng núi cao
 
Trời ơi ! Mây trắng đọng phương nào
 
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
 
Cạn hết ân tình nước lạnh sao ?
 
Một bước đường xa xa biển khơi
 
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
 
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
 
Nhưng mấy ngàn năm tống biệt rồi
 
Cho hết đêm hè trông bóng ma
 
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
 
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
 
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa
 
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
 
Rừng thu mưa máu dạt lều tranh
 
Ta so phấn nhụy trên màu úa
 
Trên phìm dương cầm hay máu xanh

Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :

Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
 
Cố quên mình là thân phận thần tiên

Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê  giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê :

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
 
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
 
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
 
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
 
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
 
Quỷ run run hôn mãi lóng xương gầy
 
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
 
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi
 
Khi tâm tư chưa là gỗ mục
 
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lý Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :

Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố
 
Thanh gươm Trí trong cánh tay Đại bi
 
Nguyện đấng Đại Hùng dũng mãnh hướng dẫn con
 
Trực diện chiến đấu với ma quân

Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ  nhắc nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó đuốc ?” Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường vô vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :

Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
 
Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh
 
Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ
 
Trời lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn
 
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
 
Ép thời gian thành rượu máu trong xanh
 
Rượu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi
 
Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
 
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị
 
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
 
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
 
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao

Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường :

Đá mòn phơi nẻo tà dương
 
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi
 
Nghìn năm vang một nỗi đời
 
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương
 
Đan sa rã mộng phi thường
 
Đào tiên trụi lá bên đường tử sinh

Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :

Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
 
Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu
 
Nghe một nỗi hao mòn trong thoáng chốc
 
Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào
 
Khuya còn lạnh sương mù và gió lốc
 
Thở hơi dài cát bụi cuốn chiêm bao
 
Bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc
 
Một lần đi là vĩnh viễn con tàu
 
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng
 
Mắt lưng chừng trông giọt máu phiêu lưu

Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần :

Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
 
Lời ai ru trào máu lệ bi thương ?
 
Hồn ai đó đôi tay gầy sờ soạng
 
Là hồn tôi tìm dấu cũ quê hương
 
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lãnh
 
Bước chập chờn heo hút giữa chiều sương
 
Viên đá nhỏ mấy nghìn năm cô quạnh
 
Hồn tôi đâu trong dấu vết hoang đường ?

Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết :

Tang thương một dải tóc huyền
 
Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu
 
Gởi thân gió cuốn xa mù
 
Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
 
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng
 
Gót xiêu dốc núi vai mang mây chiều
 
Tóc huyền loạn cả nguyên tiêu
 
Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu

Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư :

Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
 
Về nơi đây cùng khốn với điêu linh
 
Hương trái đắng mùa thu buồn bụi đỏ
 
Ôi ngọt ngào đâu mái tóc em xinh
 
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết
 
Nghe rộn ràng từ vết lở con tim
 
Từ nơi đó ta ghi lời vĩnh biệt
 
Nắng buồn ơi là đôi mắt ân tình
 
Còi xa vắng giữa trưa nào lạc lõng
 
Môi em hồng ta ước một vì sao
 
Trưa dài lắm nhưng lòng tay bé bỏng
 
Để vươn dài trên vầng trán em cao

Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai :

Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
 
Vẫn yêu người từng khoảnh khắc chiêm bao
 
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
 
Như trùng dương ngưng tụ ánh hoa đào
 
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
 
Vì yêu người ta vói bắt ngàn sao

Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một tình yêu rộng rãi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
 
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
 
Triều Đông hải vẫn thì thầm cát trắng
 
Chuyện tình người và nhịp thở Trường Sơn
 
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
 
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
 
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
 
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
 
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
 
Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang
 
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
 
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn
 
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
 
Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương
 
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
 
Bản tình ca vô tận của Đông phương

Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải :

Em trải áo trên hoa rừng man dại
 
Để hoa rừng nước cuộn biết yêu nhau
 
Nhưng nước cuộn xóa đời ta trên bãi
 
Để hoa rừng phong nhụy với ngàn lau
 
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng
 
Để cây khô mạch suối khóc thương nhau
 
Ta cúi xuống trên nụ cười chín mọng
 
Cũng mơ màng như phố thị nhớ rừng sâu
 
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
 
Thoảng trông em tà áo mỏng vai gầy
 
Ôi hạnh phúc chợt thấy mình nhỏ bé
 
Chép tình yêu trên trang giấy thơ ngây
 
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ
 
Để nhìn sâu trong vết tích hoang đường
 
Ta sống lại trên môi cười rạng rỡ
 
Để nhìn sâu trong ngọn nên tàn canh

Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn :

Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
 
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
 
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
 
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao

Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng  thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :

Ai biết mình tóc trắng
 
Vì yêu ngọn lửa tàn
 
Rừng khuya bên bếp lửa
 
Ngồi đợi gió sang canh

Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả :

Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
 
Người không đi sông núi có buồn đi
 
Tia nắng mỏng soi mòn khung cửa
 
Để ưu phiền nhuộm trắng hàng mi
 
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách
 
Gió ở đâu mà sông núi thì thầm
 
Kìa bóng cỏ nghiêng mình che hạt cát
 
Ráng chiều xa ai thấy mộ sương dầm ?

Ráng chiều xa bảng lảng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”****

Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như  tự tại vô ngại :

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
 
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
 
Trong bóng tối nỗi gì tha thiết mãi
 
Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng
 
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
 
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
 
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
 
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
 
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
 
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
 
Người ở lại giữa bàn tay bạo chúa
 
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
 
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
 
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
 
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
 
Như sương mai như ánh chớp mây chiều

Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư nghì :

Tất cả pháp hữu vi
 
Như huyễn mộng bọt nước
 
Như ánh chớp sương mai
 
Thường quán tưởng như thị

Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rõ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”

Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi :

Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
 
Vòng tay ôm cuộn khói bâng khuâng
 
Uống chưa cạn chén trà sương móc
 
Trên đài cao em ngự mấy tầng
 
Lên cao mãi đường mây khép chặt
 
Để xoi mòn ảo tượng thiên chân
 
Ồ, nguyệt quế ! Trắng mờ đôi mắt
 
Ồ, sao Em ? Sao ấn mãi cung đàn ?
 
Giai điệu cổ thoáng buồn u uất
 
Xưa yêu Em xao động trăng ngàn

Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa :

Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
 
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
 
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
 
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên
 
Từ đó ta trở về Thiên giới
 
Một màu xanh mù tỏa Vô biên
 
Bóng sao đêm dài vời vợi
 
Thật hay hư chiều nhỏ ưu phiền
 
Chiều như thế cung trầm khắc khoải
 
Rát đầu tay nốt nhạc triền miên
 
Ôm dấu lặng nhịp đàn đứt vội
 
Anh ở đâu khói lụa ngoài hiên ?

Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :

Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
 
Lá cây xanh nghiêng xuống mắt mơ màng
 
Người có biết mặt trời kia sẽ tắt ?
 
Ta yêu người từ vết rạn thời gian

Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi  vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động chan hòa :

Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
 
Tay em rung trên những phím lụa ngà
 
Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi
 
Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối
 
Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi
 
Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười
 
Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt
 
Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát
 
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
 
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
 
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
 
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
 
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa

Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh :

Nhà đạo nguyên không khách
 
Quanh năm bạn ánh đèn
 
Thẹn tình trăng liếc trộm
 
Bẽn lẽn núp sau rèm
 
Yêu nhau từ vạn kiếp
 
Nhìn nhau một thoáng qua
 
Nhà đạo nguyên không nói
 
Trăng buồn trăng đi xa

Chao ơi ! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không ? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền :

Tóc em bay trong sương chiều khói biếc
 
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
 
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
 
Đến bây giờ mây trắng gởi tin sang
 
Hồn tôi đi trong rừng lang thang
 
Cọng lời ru từ ánh trăng tàn
 
Mắt em nhỏ ngại ngùng song cửa
 
Nghe tình ca trên giọt sương tan
 
Gót chân em nắng vàng xưa viễn phố
 
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
 
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
 
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim

Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn.

Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn : “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”*****

Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn cỏn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu :

Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
 
Chiều chơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi
 
Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
 
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
 
Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
 
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi
 
Trăng nằm xuống duỗi dài hai bến hẹn
 
Một dòng sông vồn vã động chân trời

Ơi chao ! Đã chia phôi, từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai : “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với  nụ cười sâu lắng tự tri :

Khói ơi ! Bay thấp xuống đi
 
Cho ta nắm lại chút gì thanh xuân
 
Ta đi trong cõi Vĩnh hằng
 
Nhớ tàn cây nhỏ mấy lần rụng hoa

Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao :

Ve mùa hạ chợt về thành phố
 
Khóm cây già che nắng hoang lương
 
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
 
Trên phím đàn lặng lẽ tan hương
 
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
 
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương

Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn :

Một ngày chơi vơi đỉnh thác
 
Nghe bồn chồn tiếng gọi hư không
 
Giai điệu nhỏ dồn lên đôi mắt
 
Mặt hồ im ánh nước chập chờn
 
Mặt hồ im tảng màu man mác
 
Ảnh tượng mờ một chút sương trong
 
Quãng im lặng thời gian nặng hạt
 
Tôi nghe đời trong tấu khúc Thiên hoang

Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy lòng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường :

Tự tâm tự cảnh tự thành chương
 
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
 
( Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
 
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức )

Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thâm trầm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa ?

Đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài Gòn gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói : “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thõng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.

Trên ngõ về im lặng, lúc thì tiêu dao với mây trắng trên núi rừng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh cùng những ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ đi qua.

Hòa trong nhịp bước vân du, người viết chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ : “ Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…

Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”

Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin kính tặng một bài thơ bình dị :

Những phương trời viễn mộng đi
 
Thi ca tư tưởng bước kỳ ảo qua
 
Đọa đày một thuở ta bà
 
Nỗi đau rực cháy thấy ra tột cùng
 
Ôi ! Giấc mơ Trường Sơn rung
 
Rúng hồn tim máu chợt bùng vỡ mơ
 
Kinh thiên động địa sững sờ
 
Đâu chân diện mục của thơ với thiền ?
 
Mặc như lôi ngồi tịch nhiên
 
Nghe ban sơ vọng ngân huyền diệu âm
 
Những điệp khúc cho dương cầm
 
Từ vô tận ý vang thâm thiết niềm
 
 *Tâm Nhiên

Bài khác nên xem

Bút ký TRẠI LỤC HÒA IV – KỶ NIỆM CHU NIÊN LẦN THỨ 60 GĐPT CAM RANH

phuocthanh

LỜI NHẮN NHŨ HUYNH TRƯỞNG NGÀNH ĐỒNG VÀ NGÀNH THANH

nhuanphap

Những Thánh Địa Phật Giáo tại Ấn Độ

phuocthanh