18.Âm nhạc , thế mạnh của GĐPT.
Cho đến nay (2004 ) ban văn nghệ đã sưu tầm, ký âm, phục dựng và lưu trữ hơn 800 ca khúc ngắn và dài đã từng xử dụng trong các buổi Lễ, nghi thức GĐPT, nhạc Đạo, sinh hoạt Gia đình , sinh hoạt cộng đồng ……số lượng có thể nhiều hơn nhưng không được phổ biến rộng rãi, đa phần là hát truyền khẩu nên mỗi nơi mỗi hát khác nhau, và qui luật bảo hòa và đào thải xảy ra trong GĐPT rất chóng , nên dù có lưu trữ bao lâu mà không dùng phương tiện giao lưu, băng từ, đĩa nhạc để phổ biến thì cũng khó khăn trong việc bảo tồn. Năm 1965 , Tu thư BHD Trung ương phát hành vỏn vẹn một tập NHẠC SỐNG GĐPT bằng bản in có kiểm tra ký âm cùng ca từ kỹ càng. Về sau, các BHD Cam Ranh, Đà Lạt-Tuyên Đức (nhiều nhất) Quảng Đức – Saigon ….đã phát hành những tập nhạc quay Ronéo, đánh máy, viết tay lưu hành nội bộ nhưng phần ký âm (solfère) sai nhiều, cho đến thập niên 1990 anh Nguyên Định – Bửu Ấn tự kẽ hàng và viết tay quyển 450 bài hát GĐPT thì chúng ta tạm thời an tâm về chất lượng ghi nhạc vì anh là một HT nhạc sĩ lão thành. Anh cũng đã qui tụ một số giọng ca “ vàng “ để thu âm, tự phát hành nhiều băng nhạc hỗ trợ phổ biến các ca khúc ấy. Tuy nhiên phần kỹ thuật hòa âm và hát xướng thì khá đơn giản “cây nhà lá vườn” nên chỉ có tính cách hướng dẫn nội bộ.Riêng anh Như Vinh – Nguyễn Văn Xứng thì vẫn sáng tác đều đặn và chăm chút những tác phẩm của mình như xưa nay anh vẫn làm, về sau anh cũng thực hiện được những CD khá tốt. Năm 2000, anh Đức Quảng đã ký âm lại hơn 500 ca khúc nhiều tác giả theo từng chủ đề bằng bản in vi tính thành 3 quyển : Nhạc sinh hoạt, Nhạc Vu Lan, Nhạc Đạo phát hành rộng khắp, đồng thời anh đã phát hành CD nhạc GĐPT năm 2001, tiếp theo là DVD, VCD karaoke nhạc GĐPT ra đời năm 2003. Dù sự phổ biến còn hạn chế, gián đoạn nhưng cũng đã khơi dậy một tiền đề mới để củng cố và phát triển bộ môn âm nhạc GĐPT tương lai.(Cho đến nay, năm 2011 ban Văn nghệ đã thực hiện được gần 100 ca khúc hoàn chỉnh qua Studio và Karaoke)
IV TÍNH CHẤT VĂN NGHỆ GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
1/ Tinh thần khai phóng và tính chất dung hoá tự nhiên .
Bình minh của Gia Đình Phật Tử đã xuất hiện một bài Đoàn ca nêu bật ý nghĩa mục đích của Đoàn Phật Học Đức Dục nhưng ca từ lại hát bằng tiếng Pháp! Cũng dễ hiểu , vì Đoàn lúc đó qui tụ hầu hết là những Phật tử trí thức trong thời đại văn hoá cách tân,có khi cũng để người Pháp không nghi ngờ về sự hiện diện của tổ chức Phật giáo này, cho đến khi mở rộng thành Gia đình Phật Hoá Phổ thì nhu cầu một bài Đoàn ca Việt ngữ rất cần thiết .
Nội qui GĐPT ,chương III , điều 11 , xác nhận :
Huy hiệu chính thức của GĐPT là Hoa Sen Trắng ,tám cánh trên nền tròn xanh lá mạ , viền trắng .
Nội qui GĐPT ,chương III , điều 12 , khoản a ghi rõ :
Bài Hoa Sen Trắng là bài ca chính thức của Gia Đình Phật Tử .(Trong khi tựa bài hát là SEN TRẮNG, không có chữ HOA!!!)
Nhạc của Ưng Hội , lời của Phạm Hữu Bình & Nguyễn Hữu Quán , viết theo dạng ca khúc ngắn ( chanson) vỏn vẹn 16 trường canh ( ô nhịp)và 54 từ :
Mở đầu cho một ngày mới , một buổi sinh hoạt GĐPT , toàn thể các đoàn viên đứng nghiêm trang để chào cờ và hát bài ca này. Ca từ rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng đọc kỹ thì chúng ta thấy tính ảnh dụ và dung hoá giữa Hoa sen trắng cùng Đức Thế Tôn không khác – hoà quyện vào nhau một các tự nhiên . Chúng ta đang tụng một bài kệ sắc tướng toàn bích :
Thân thị Bồ Đề thụ Kìa xem đoá sen trắng thơm
Nghìn hào quang chiếu sáng trên bùn.
Tâm như minh cảnh đài Hình dung Bổn Sư chúng ta
Lòng Từ Bi Trí giác vô cùng
Thời thời cần phất thức Đồng thệ nguyện một dạ theo Phật
Nguyện sửa mình ngày thêm tinh khiết
Hà xứ nhạ trần ai Đến bao giờ được tày Sen ngát
Toả hương thơm Từ Bi tận cùng .
Bài ca này đã nói lên MỤC ĐÍCH LÝ TƯỞNG của GĐPT – Cứu cánh giải thoát . Là một sự định hướng trọn đời hoặc trăm nghìn muôn kiếp của Phật tử chân chánh ra công gắng đi tìm chỗ “Bổn lai diện mục” của chính mình – Ngoài ra , không tìm một thứ gì khác, và cũng bị bất cứ thứ gì làm vấy nhiễm bản thân .
Bài Sen Trắng tuy ngắn nhưng là một tác phẩm có đến ba tác giả: Nhạc Ưng Hội . Lời : Phạm Hữu Bình – Nguyễn Hữu Quán ! Xin mời quí bác , quí anh chị xem quyển Lược sử Phật Giáo quyển III của Nguyễn Lang để biết ông Hữu Bình và Hữu Quán đều là những nhà tư tưởng Phật Giáo cách tân trong thời kỳ chấn hưng từ Đoàn Phật học Đức Dục thì sẽ hiểu ý nghĩa tối quan trọng trong ca từ của bài Sen Trắng như đã nêu trên .
Cũng trong thuở ban sơ chúng ta biết đến một dòng nhạc trang nghiêm trầm bổng giữa cổ điển và tân thời với những thang âm đúng qui cách, âm luật qua bài Trầm hương đốt ( Hải triều âm ) và bài ngày vía đản sinh của Bửu Bác, nếu hoà âm phối khí cùng hợp xướng hai bài này, chúng ta vẫn thấy tâm hồn quy ngưỡng tam bảo và khả kính của nhã nhạc dân tộc hoà quyện vào nhau với âm điệu riêng biệt – Rất khác với những bài hợp xướng của những ca đoàn nhà thờ Catholic.
Năm 1982 , anh Tâm Phát và anh Như Tâm có hội ý với chúng tôi về việc sáng tác một bài hát để GĐPT dâng lục cúng. Chúng tôi góp ý : “ Trong lễ nhạc chưa có bài nào trang nghiêm bằng Trầm hương đốt , nhưng bài này chỉ để nguyện hương. Và chúng tôi đã kết nối câu cuối của Trầm hương đốt qua bài Cúng dường cùng tông Fa majeur / Ré mineur chia làm sáu lễ phẩm dâng cúng , nhịp trầm bổng và nhặt khoan hoà quyện vào nhau .
Năm 1986 , anh Như tâm Nguyễn Khắc Từ lại đề nghị chúng tôi nghiên cứu sáng tác một bài tưởng niệm GĐPT – Tưởng niệm chư ân sư , chư Thánh tử Đạo , quí Đạo hữu , anh chị áo Lam hữu công đã quá vãng hoặc còn sống . Thế là ca khúc Sống Trọn Đời Lam ra đời bổ sung vào phần lễ nhạc
Một bài hát trang nghiêm được bổ sung vào phần lễ nhạc hát để cung nghinh Chư Tôn Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức quang lâm. Ở chùa thì có ba hồi chuông trống Bát Nhã, còn ở đất trại thì nên có một bài hát thành kính bày tỏ lòng thành ! Bài Kính Mến Thầy của Dương Xuân Dưỡng với một câu tâm niệm để đời: “ Dù bao nhiêu gian khổ , dù gặp nhiều nguy khó . Lý tưởng – chúng con vẫn tôn thờ “ Hát gần 50 năm như thế . Vậy mà , 40 năm sau có một thiền sư danh tiếng trong một buổi Pháp thoại đã đề nghị sửa lời của bài ca này: “ Trong giờ phút vui này – Chúng con quyết lòng ngồi đây “ thay vì “ Trong giờ phút vui này – chúng con biết làm gì đây ? “ ( trong quyển Đường về vườn Nai của Thiền sư NH )
Những nhạc sĩ chuyên nghiệp và cũng là nhạc sĩ sáng tác của GĐPT như Lê Mộng Nguyên ( hiện ở Pháp ) , Phạm Mạnh Cương ( Canada ) Lê Lừng , Lê Cao Phan , Nguyễn Hữu Ba, Hằng Vang, Anh Lạc, Ngọc Kỳ, Ngô Mạnh Thu, Hoàng Cang , Lê Mộng Bảo….. đã hợp sức mở mang một con đường riêng biệt cho dòng nhạc GĐPT trong suối nguồn âm nhạc đa âm sắc của Phật Giáo. Dù ngày nay chỉ còn một số ít anh chị ở lại với GĐPT nhưng các thế hệ sau vẫn thành kính tri ân các anh chị nghệ sĩ tiền nhân đã mở một hướng đi trong buổi đầu gian khó .
Ngày nay, sự tồn tại bất hủ của những ca khúc ngắn như Trai áo Lam của Phạm Mạnh Cương , Xây dựng gia đình của Đỗ Kim Bảng, Chim bốn phương, Dòng Anoma của Hoàng Cang, Gia đình thân ái của Lê Mộng Nguyên, Kết đoàn của Anh Lạc, Em đến chùa của Dương Thiện Hiền, Nhịp vui khánh Đản của Ngô Mạnh Thu …..như là một minh chứng cho thấy thời rạng rỡ của dòng nhạc trong sáng tươi vui. Trước tiên các ca khúc ấy phải mang tính chất đại chúng ( chim bốn phương ), lời lẽ vần điệu dễ nhớ, tạo ra tính truyền cảm trong khí thế sôi động ( trai áo Lam , Kết đoàn , mừng ngày Phật đản ) chan chứa thân thương ( Gia đình thân ái , xây dựng gia đình ) Những ca khúc ấy đã vượt thời gian , thế hệ nào , tuổi tác cũng có thể ca hát không ngại ; Chúng cũng vượt không gian , vì nếu dừng lại ở không gian này thì dễ bị chối bỏ ở không gian khác. Thí dụ như một bài hát ca ngợi GĐPT ở chùa Linh Sơn thì không thể hát ở chùa Lôi Âm và ngược lại .
Trên nền móng này, nhạc GĐPT từng bước khai phóng đã biểu thị cho các nghệ sĩ GĐPT mạnh dạn sáng tác với tâm hồn và sức sống GĐPT rất riêng . Ngày nay , nhiều người nghĩ rằng nên nhờ một nhạc sĩ nổi tiếng viết nhạc GĐPT ! Nhạc điệu có thể hay , nhưng ca từ và sức sống có mang chất GĐPT hay không chỉ có những nghệ sĩ GĐPT mới cảm biết được .
Nhạc GĐPT , trong đó tính chất của bản thể cá nhân không tồn tại , sự tươi vui của trẻ thơ chỉ biết cảm nhận không so đo tính toán, sự dũng mãnh hướng thượng đòi hỏi tấm lòng vị tha , hoà hợp. Suối reo, thác đổ , chim ca trong các lứa tuổi ngày xanh sẽ làm trổ hoa tươi lá những vùng u tối khổ sầu:
“Nghe chim rừng hoà ca líu lo – Vang trời thanh cao ta reo hò
Đem bao nguồn vui sống yêu mến – Gieo vào nơi u tối lầm than.”
(Phạm Mạnh Cương )
Trong các tác phẩm văn nghệ GĐPT chúng ta không thấy vết cày xới của gần trăm năm thuộc địa, vết dao cắt của 30 năm đất nước chia đôi, vết hờn căm của sân hận bạo tàn trong mấy mùa Pháp nạn ……mà chỉ thấy nêu cao tình người , tình thương chúng sanh , đồng loại .
Là vì , mục đích của GĐPT qua bài ca Sen Trắng đã vượt qua biên hạn của chủng tộc màu da để nhìn nhận tình chúng sanh – đồng loại . Có bao giờ chúng ta tự hỏi : “ Tại sao Phật thuyết những câu chuyện tiền thân, trong muôn kiếp Ngài đã từng là Chim Oanh Vũ hiếu thảo, Con cá lớn cứu người, con vượn chúa nhân từ, con sư tử Kiên Thệ, Con Nai chúa Lộc Uyển …. Thậm chí , Ngài đã từng hiến thịt, hiến xác cứu đói, cứu bệnh cho các loài dã thú ? “ Hiểu được điều này để hoà đồng , bình đẳng có phải chăng đã bước được một quãng dài trên đường khai phóng tự thân ?
Nói đến sự đơn giản nhẹ nhàng của ca khúc Chim bốn phương của Hoàng Trọng Cang , có vài phát biểu cá nhân làm cho giới trẻ giật mình ngộ nhận :
– Phát biểu của Thượng Toạ T.Bửu : “ Làm gì không làm , sao cứ thích làm chim ? “
– Phát biểu của một huynh trưởng cao niên : “ Hồi trẻ hát bài chúng ta là chim, bây giờ già rồi cũng chúng ta là chim !!! “
Có thể anh chị không có thời gian để hiểu hay là không muốn hiểu
“ Chúng ta là chim ……sống trong Đạo thiêng “ : Ở nước cực lạc thường có các loài chim Bạch hạc, khổng tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, cộng mạng chi điểu…. diễn nói Pháp âm …..( Kinh A Di Đà )
“ Chúng ta là hương ……khắp nơi ánh vàng “ Chỉ có hương hoa của người Đức hạnh mới bay ngược chiều gió đi khắp bốn phương ( Kinh Pháp Cú )
Được làm chim như vậy , được làm hoa như vậy trong Phật tánh bình đẳng ( bình đẳng tánh trí ) – Ý và lời của Hoàng Trọng Cang thâm sâu vô cùng mà chỉ với vài ca từ đơn giản .
Anh Hoàng Cang di trú qua Mỹ được vài năm , nhân dịp trở về thăm quê hương lần đầu ,anh đã nói với chúng tôi rằng :
– Qua bên ấy anh có xem được tuyển tập các bài hát ngắn trong đó có bài WILL YE’ (you) COME BACK AGAIN ? ( Bạn sẽ trở lại nữa chứ ?) viết từ thập niên 1930 có ký âm giống bài Dây Thân Ái của ông Lê Lừng , bài này đã được chọn làm bài ca giã từ GĐPT . Và trong tập nhạc ngắn do Ai hữu Vĩnh Nghiêm phát hành tại Hoa Kỳ , nhạc sĩ Huynh trưởng Tâm Hoà – Ngô Mạnh Thu không vừa ý đã lên tiếng ; “ Có những bài hát GĐPT đã được biên soạn như thế ! “
Thì đây chúng ta xem lại lời bộc bạch của Tâm Hảo – Hồ Phùng :
Chính vì nghe những đứa nhỏ trong xóm Đập Đá đêm nào cũng hát , mà nghêu ngao những tiếng Tây không ra Tây – Việt không ra Việt . Nên anh Lê Lừng mới lấy bài hát Tây đặt lại lời Việt dạy cho chúng hát ……
Chúng tôi chưa từng gặp ông Lê Lừng để hỏi nguồn gốc của ca khúc ngắn Dây Thân Ai được biên soạn thế nào. Có thể anh đặt lời Việt để có bài hát chia tay ( Hướng Đạo cũng có bài hát chia tay và nắm tréo tay để hát ) Nhưng chúng ta hãy đọc kỹ phần ca từ – trong đó không có đề cập đến GĐPT, áo Lam, hay Đạo thiêng chi cả !!! nhưng vẫn thắm thiết Đạo tình , thiên nhiên và tình người nhắn nhủ nhau khi xa cách :
“ Dây thân ái lan rộng muôn nhà . Tay sắp xa nhưng tim không xa . Vui tươi ta biết trong lòng nhớ lòng . Ta hát vang không gian đơm hoa . Đường tuy xa nhưng tình bao la , tiến bước theo hương thơm nhà lưu truyền . Dù cách xa muôn dặm nhưng gần . Gang thép ta chia tay đừng buồn .”
Có thể là vô tình bài ca này được chọn để kết dây GĐPT và lâu ngày trở thành truyền thống không thể thay thế! Chúng tôi không nghĩ rằng đây là một sự tiếm dụng , nếu có, vì đồng thời với anh có nhiều nhạc sĩ hiểu biết, mà học theo chương trình Pháp thì môn nhạc lý là môn bắt buộc – Anh từng làm công việc đặt lời nhạc bằng Việt ngữ chỉ thiếu phần ghi nhạc của nước nào ( Anh hay Pháp ) mà thôi . Vì hiện nay chúng tôi có lưu trữ mấy quyển ca khúc ngắn xưa của các nước khác mà trong đó không có ghi tên tác giả .
Đưa ra ba sự kiện : Một , bài ca đầu tiên do cụ Ưng Bình viết lời trên nền nhạc cổ truyền xứ Huế – sau được Bửu Ấn bổ sung phần nhạc và lời ; hai , bài Sen Trắng ban đầu ghi bằng tiếng Pháp ; ba , bài Dây Thân ái nhạc ngoại quốc , Lê Lừng đặt lời Việt đã nói lên cái lý phương tiện trong tinh thần dung hoá của Văn Nghệ GĐPT .
Nhạc sĩ học giả Lê Cao Phan lừng danh với bài hát Phật Giáo Việt Nam được công nhận là Giáo ca , Giáo thiều của Giáo hội PGVNTN cũng đã ghi 2 lời, lời Việt và lời Pháp trong bảng ký âm của mình (1951). Lê Cao Phan có một thời gian viết rất khoẻ cho những ca khúc học đường và Thiếu nhi , còn số lượng tác phẩm dành cho GĐPT lại rất khiêm tốn. Anh là Nhạc sĩ đầu tiên viết nhạc thể loại truyện ca GĐPT : Lòng Hiếu chim Oanh Vũ. Về sau , chúng ta thấy những bài hát chính thức của trại HL Lộc Uyển Vườn xanh ; trại A Dục Đồng ca kết đoàn ; trại Huyền Trang đều ghi tên tác giả là Lê Cao Phan . Nhưng chúng tôi đã xác minh qua anh Phan và anh Luyện thì chỉ có bài Vườn Xanh của trại Lộc Uyển là của anh Lê Cao Phan còn hai bài A Dục và Huyền Trang là của Anh Lạc ( Nguyễn Đình Luyện )
Vấn đề kỹ thuật ký âm của bài ca chính thức trại chưa được chặt chẽ lắm! Thường thì một bài trại ca sẽ hát tiếp theo bài Sen Trắng và nhất thiết phải cùng Ton SOL hoặc thấp hơn một cung là Ton Fa mới đồng âm, nhưng bài Đồng ca kết đoàn của Trại A Dục và Huyền Trang ca lại là Ton Do, tức là cách Sol đến 2 cung rưỡi. Thật sự đã gây khó khăn cho trại sinh khi hát sau bài Sen Trắng .Bài trại ca Phú Lâu Na của nhạc sĩ Bửu Ấn cũng vậy ( ton Ré / 3 ½ ) Có một số nơi khi tổ chức trại mới, huynh trưởng liền chọn ngay một ca khúc Ton mineur ( thứ ) giai điệu buồn làm bài ca chính thức. Chứng tỏ GĐPT chưa có một giáo trình hay những nhận xét nghiêm túc để hỗ trợ cho hàng lãnh đạo thấu biết .
Nhạc sĩ tài hoa Anh Lạc hay Tâm Bản là tác giả nhiều ca khúc GĐPT , hay và ý nghĩa nhất là bài ca cuối lửa : Đêm Giã từ với nhịp 6/8 , một nhịp điệu hiếm hoi trong âm nhạc GĐPT . Đêm cuối lửa lặng yên sau câu chuyện lửa tàn và mọi người nhè nhẹ , chầm chậm hát không gõ nhịp , không vỗ tay . Xong , từ từ , im ắng đứng dậy về lều . tranh cảnh không lời mà sâu khắc tâm tư .
2/ Tinh thần vô nhiễm ly dục và bình Đẳng ,:
Tôi nhớ có một thời gian GĐPT múa và hát dân ca trong vòng tròn sinh hoạt chung với Hướng Đạo , học sinh Phật tử …. Những người bạn này diễn hoạt cảnh với bài hát Sơn tinh – Thủy tinh . Sơn tinh đem sính lễ đến rước Mỵ nương về , trai đóng giả gái , gái đóng giả trai thì cũng chưa đụng chạm đến ai , nhưng rồi vòng tròn chia ra từng cặp vừa hát vừa chơi bài dân ca Qua cầu gió bay “ yêu nhau cởi áo cho nhau “ đến đây nhóm GĐPT không biết làm sao cho phải ! chúng tôi cũng không vô tâm đến nổi đem trò chơi này về áp dụng cho đoàn. Những ca khúc Ong Ninh , Ong Nang tranh nhau cô Kiều dù là hài hước dân dã cũng cần phải tránh. Nhạc GĐPT không chấp nhận những bài hát trữ tình về trai gái, chuyện lứa đôi như thế nhan nhãn khắp ngoài xã hội.
Kịch bản Mùa Gặt ác của Võ Đình Cường là câu chuyện nhân quả nghiêm túc và kịch tính gặt quả có lúc lên đỉnh điểm , đây là tác phẩm hay của văn học Phật Giáo , tuy có cảnh vợ chồng, nam nữ mến nhau mà không thân mật, diễn viên chỉ cần diễn tròn vai. Tuy nhiên trong GĐPT chỉ để cho người lớn đóng không nên để lứa tuổi Thiếu, thanh nam cùng nữ nhập vai rồi suy tưởng, mơ mộng viễn vông.
Đêm chia tay giữa Thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La , hoặc chuyện bi thương của đôi vợ chồng thái tử Câu Na La , đôi vợ chồng Tu Đại Noa và Mạn Trà …….. phải diễn trong niềm tương kính, có ân mà không ái, không khơi dậy chuyện trai gái trong GĐPT.
Bên cạnh đó , GĐPT tuy có sử dụng nhạc cộng đồng và nhạc quê hương trong trình diễn sân khấu, lửa trại hoặc giao lưu nhưng đều có tuyển chọn thứ nhất, tránh chuyện tình nam nữ, thứ nhì, tránh công kích phản đối, không suy tôn, châm biếm nhân vật và các vấn đề Xã hội .
Phải công nhận rằng trong thời kỳ trước 1975, cùng với Hướng Đạo và các vụ Phật tử khác như Sinh viên Phật tử , Học sinh Phật tử … GĐPT có chung hát những ca khúc phản chiến như: Việt Nam Quê hưong ngạo nghễ, Đường Việt Nam của Nguyễn Đức Quang, Ôi ! Tổ quốc ta đã nghe của La Hữu Vang, Nối vòng tay lớn của Trịnh Công Sơn , Hát từ đồng hoang của Miên Đức Thắng, vượt đồi nương của Phạm Đình Chương …..Nhưng sau 1975 chỉ còn một tổ chức GĐPT sinh hoạt và hát trở lại những ca khúc thuần túy của mình và dòng nhạc Hiếu của xã hội . Tuy nhiên , có những ca khúc ngắn thuộc loại nhạc sinh hoạt cộng đồng đã quen và không còn phân biệt được như Bốn phương trời , anh em ta về , cùng nhau múa ,đường đi khó , nhảy lửa …v….v… Vì những nền nhạc và ca từ của chúng vui tươi trong sáng nên vẫn có chỗ đứng trong GĐPT .
Về nhạc quê hương GĐPT không chấp nhận loại nhạc trữ tình mà còn phải cẩn thận với những bài dân ca có tính cách sát sinh hại vật như: Tiếng dân chài của Phạm Đình Chương , hò giăng lưới miền Trung…. Trong nhạc sinh hoạt càng không thể xử dụng các bài bắt cá, bắt cua hoặc các trò chơi nhỏ bắn súng , bắn tàu .Cannon
Tóm lại , Huynh trưởng khi phát ngôn hay ca hát , ra trò chơi đều có ý thức về tinh thần giáo dục qua văn nghệ GĐPT , không nên dễ dãi để lâu ngày thành tật sẽ rất khó sửa đổi . Nên mới có sự nghiên cứu để “ Phật hoá “ trò chơi là vậy .
Đến khi phong trào GĐPT lớn mạnh cùng với sự kiện thống nhất Phật Giáo Việt Nam , nhu cầu văn nghệ trình diễn nhạc Đạo trên sân khấu cho quí Phật tử xem rất cần thiết – Từ đó dòng nhạc dài trên 32 ô nhịp phát triển . Có những ca khúc bất hủ như Từ Đàm Quê hương tôi của Nguyên Thông, Nhớ mái chùa xưa của Nguyên Đàm , Nguyên Diệu , mưa đông rơi của Hoàng Cang, Tôi yêu màu Lam của Trần Nhật Thành , Ánh Đạo vàng của Hằng Vang ..v…v..
còn tiếp