Nguyên Thông sáng tác nhạc phẩm “Từ Đàm Quê Hương Tôi”

VanGiangVăn Giảng (1924 – ) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca. Khi viết tình ca, ký tênThông Đạt, ông đã viết bản “Ai về sông Tương” nổi tiếng. Ngoài ra Văn Giảng còn những bút danh khác như Nguyên Thông.

THÂN THẾ:

Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại Huế. Xuất thân trong một gia đình trung lưu có truyền thống về âm nhạc; ông nội của Văn Giảng là một nhạc sĩ cổ nhạc, ngay từ bé Văn Giảng đã tỏ ra những năng khiếu về âm nhạc. Ông bắt đầu tập chơi mandoline rồi sau đó đến guitar.

Con đường âm nhạc

Văn Giảng từng dạy nhạc ở Huế, rồi ông vào Sài Gòn thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân ở đó. Sau khi thi đỗ Anh văn ở Hội Việt Mỹ, Văn Giảng trúng tuyển và ông sang Hoa Kỳ học âm nhạc tạiHawaii và Bloomington. Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó Văn Giảng trở về nước và được đề cử làm giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.

Phần lớn các sáng tác của Văn Giảng thuộc thể loại hùng ca như “Thúc quân” (1949), “Lục quân Việt Nam” (1950), “Đêm Mê Linh” (1951), “Quân hành ca” (1951), “Qua đèo” (1952), “Nhảy lửa” (1953)… nhưng ông còn viết tình ca với bút danh Thông Đạt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm “Ai về sông Tương“.

 Bản nhạc Hoa Cài Mái Tóc

“Ai về sông Tương” được Thông Đạt viết vào năm 1949. Về ca khúc này có một giai thoại: Những năm cuối thập niên 1940 đó, Văn Giảng có chơi thân cùng ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa Huế, một số hành khúc của Văn Giảng cũng được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành. Một lần Tăng Duyệt nói đùa ngụ ý rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.

Văn Giảng nghe như vậy và không trả lời. Sau đó ông viết bản “Ai về sông Tương” và ký tên Thông Đạt. “Ai về sông Tương” được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà NộiHuếSài Gòn và nhanh chóng nổi tiếng. Sau nhiều lần được nghe bản nhạc đó trên đài, Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài “Ai về sông Tương” là ai không. Văn Duyệt muốn tìm mua lại bản quyền để xuất bản nhạc phẩm đó nhưng Văn Giảng trả lời không biết.

Một lần hai người bạn của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tới chơi và tình cờ nhìn thấy bản thảo của “Ai về sông Tương”. Nhờ đó Tăng Duyệt mời biết Văn Giảng chính là Thông Đạt, tác giả của bàn tình ca nổi tiếng đó.

Với bút danh Thông Đạt, Văn Giảng còn sáng tác một số nhạc phẩm khác như “Đôi mắt huyền”, “Hoa cài mái tóc”, “Tình em biển rộng sông dài”, “Xin đừng chờ em nữa”.

Nhạc Phật giáo

Ngoài Thông Đạt, Văn Giảng còn có một bút danh khác nữa là Nguyên Thông khi ông viết những ca khúc về Phật giáo. Dưới bút hiệu này, ông đã sáng tác khoảng vài chục ca khúc về Phật giáo, đóng góp không nhỏ cho nền Phật nhạc của Việt Nam. Các bài của ông được thường xuyên hát lên trong các buổi tụng niệm tại các chùa từ Huế vào đến Sài Gòn. Bài “Mừng ngày Đản Sanh” của ông được dùng làm ca khúc chính thức cho ngày Phật Đản đến tận bây giờ. Nguyên Thông đã được ký dưới những bản “Từ Đàm quê hương tôi”, “Mừng ngày Đản Sanh”, “Ca Tỳ La Vệ”, “Vô thường”, “Hoa cài áo lam”.

Nhạc thiếu nhi

Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên Hát mà học gồm có 10 ca khúc: “Đến trường”, “Chơi ná”, “Chê trò xấu nết”, “Mèo chuột”, “Tham mồi”, “Gương sáng Lê Lai“, “Quang Trung hùng ca”, “Trăng Trung thu“, “Chúc xuân” và “Tạm biệt”.

Tân cổ nhạc hòa tấu

Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu Việt Thanh, ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranhtỳnhị huyềnnhị hồđàn nguyệt… hoà tấu chung với dương cầmtây ban cầmđại hồ cầm

Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo “Ai đưa con sáo sang sông”, một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển Kỹ thuật hoà âm dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường.

Nhiệm sở Trưởng phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, Giải Văn học Nghệ thuật

Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an (Tăng Duyệt, bạn thân của ông, bị giết trong biến cố này) nhạc sĩ Văn Giảng vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 1969. Ở đó, Văn Giảng dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanhđài truyền hình và soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc.

Cũng trong thời gian này, với bút danh Thông Đạt, ông viết tiếp một số tình khúc khác. Đồng thời, Văn Giảng được Bộ Văn hóa Giáo dục đề cử làm Trưởng phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật.

Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm Ngũ tấu khúc (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền Đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại OsakaNhật Bản.

Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng ở lại Việt Nam cho đến năm 1981 ông vượt biên đến đảo NatunaIndonesia, sau chuyển đến đảo Pulau Galang. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác một số bài nói lên thân phận của những người lưu vong mà bài đầu tiên là “Natuna người tình đầu” cùng một số 70 ca khúc khác.

Ngày 20 tháng 5 1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầmhòa âm, sáng tác, học hát, học đàn… Văn Giảng còn sáng tác thêm nhiều tình khúc được tập hợp thành một số tập, như 12 tình khúc (Tập I)12 Tình Khúc (Tập II). Văn Giảng hiện cư ngụ ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc.

TÁC PHẨM:

Văn Giảng

  • Chê Trò Xấu Nết
  • Chơi Ná
  • Chúc Xuân
  • Có Thế Thôi
  • Đêm Mê Linh
  • Đến Trường
  • Đoàn Người Phiêu Lưu
  • Gương Sáng Lê Lai
  • Lục Quân Việt Nam
  • Mèo Chuột
  • Nam Quan Hận Khúc
  • Nhảy Lửa
  • Quang Trung Hùng Ca
  • Sầu Ô Thước
  • Sĩ Nông Công Thương
  • Tạm Biệt
  • Tham Mồi
  • Thanh Niên! Thanh Niên!
  • Thúc Quân (Hồn Quân Reo)
  • Trăng Trung Thu

Nguyên Thông

  • Bao La Vô Tận
  • Bờ Mê Bến Giác
  • Buông Xả
  • Đời Sáng Đức Phật
  • Giả Hợp
  • Giòng Sinh Diệt
  • Hãy Tự Giác
 

Thông Đạt

  • Ai Về Sông Tương
  • Bàng Hoàng
  • Đôi Mắt Huyền
  • Hoa Cài Mái Tóc
  • Năm Nay Em Mấy Tuổi?
  • Thương Tà Áo Bay (lời thơ của Nguyên Đàm)
  • Tình Em Biển Rộng Sông Dài
  • Xin Cho Tôi Giấc Mộng Bình Yên
  • Xin Đừng Bỏ Nhau
  • Xin Lễ Cưới Em

 

Bài khác nên xem

Phật Giáo Với Thiên Nhiên

phuocthanh

Viết Về Nhạc Phẩm Đêm Mầu Nhiệm – Đức Quảng

ducquang

6 món ăn, nước uống hạ nhiệt cho trẻ mùa hè

phuocthanh