Lịch Sử Các Thánh Tích Phật Giáo

 

 LƯỢC SỬ CÁC THÁNH TÍCH

PHẬT GIÁO TẠI ẤN ĐỘ

                                                         H.T. Thích Trí Chơn

DUYÊN KHỞI

 Là Phật tử, ai cũng mong có dịp đến chiêm bái, ít nhất là một lần trong đời mình, các thánh tích Phật Giáo tại Ấn Độ. Đọc lịch sử đức Phật, phần đông Phật tử đều biết đại khái qua kinh sách Phật giáo, rằng quê hương của đức Phật là vương quốc Thích Ca (Sakya Kingdom), thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn (tịch diệt) ở rừng Sa La tại Câu Thi Na (Kusinagara); nhưng không phải ai cũng có duyên lành hành hương đến được đất Ấn để chiêm bái, chứng kiến tận mắt các Phật tích đó.

Từ lâu, ngay khi đang còn tu học ở Ấn Độ, khoảng hơn 30 năm trước, chúng tôi đã có ý định biên soạn một cuốn sách, viết đầy đủ về lược sử các Phật tích nói trên, để giúp cho Phật tử Việt Nam, dù chưa có dịp qua Ấn chiêm bái, vẫn hiểu biết được phần nào các Thánh Tích Phật Giáo thiêng liêng tại Ấn Độ, nhưng vì lúc ấy, quá bận lo đèn sách, nên chúng tôi chưa thực hiện được. Hoài bão này cứ ôm ấp mãi cho đến giữa năm 1977, vì nhu cầu Phật sự, chúng tôi đành rời quê hương xứ Phật trong luyến tiếc, để sang Hoa Kỳ.

Từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, gần 8 năm qua, chúng tôi lại phải dấn thân vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh: lập chùa làm trụ trì, lãnh đạo, hướng dẫn Phật tử, nên rồi ngày lại, tháng qua, năm đến; cứ như vậy, cuộc đời người tu sĩ trên đất cờ hoa, mãi bận lo suốt ngày với không biết bao nhiêu Phật sự đa đoan chồng chất, đến nỗi hằng ngày không có chút thì giờ rảnh rỗi để nghỉ ngơi, còn nói chi đến việc đọc, và viết sách.

Tám năm nhanh chóng trôi qua như “bạch câu quá khích” (ngựa trắng chạy qua cửa sổ), đời người tăng sĩ, nhất là tăng sĩ Việt Nam nơi hải ngoại, với biết bao nhiêu khó khăn, gian lao thử thách, biến đổi thăng trầm; mãi đến hôm nay, nhờ nhân duyên Phật Pháp nhiệm mầu xoay chuyển, chúng tôi mới có hoàn cảnh để thực hiện nguyện ước hơn 30 năm trước của mình, là viết về lược sử các Thánh tích liên hệ đến cuộc đời cao siêu của đức Phật ở Ấn Độ.

Phật giáo ngày nay đã trở thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, chiếm hàng trăm triệu tín đồ khắp năm châu. Do đó, người Phật tử muốn thấu hiểu giáo lý của đức Phật, không thể không biết, hay biết lờ mờ và sai lạc về nơi nguồn gốc đã phát sinh ra Phật Giáo, và các Thánh tích gắn liền với đời sống vị giáo chủ của mình, là đức Phật ở Ấn Độ. Hơn nữa, kiến thức lịch sử về các Phật tích, sẽ soi sáng giúp chúng ta hiểu biết tường tận, với nhiều thích thú hơn, về cuộc đời của đức Bổn Sư Thích Ca Từ Phụ, và làm tăng thêm niềm tin ở chúng ta rằng, đức Phật là một Thánh nhân lịch sử có thật, không phải là một nhân vật thần thoại; với các di tích còn lại đến ngày nay, rải rác khắp nơi trên đất Ấn, mà chúng ta có thể đến chiêm bái tại chỗ, nhìn thấy tận mắt; dù đã trải qua hơn 2.500 năm, với những công trình khảo cứu, khám phá, xác nhận của các sử gia, và những nhà khảo cổ trứ danh Đông lẫn Tây Phương. Chính vì ý thức được tầm quan trọng, cũng như sự đóng góp lợi ích lớn lao của các Phật tích Ấn Độ, cho việc nghiên cứu và hiểu biết, nhất là làm tăng trưởng niềm tin Tam Bảo đối với hàng con Phật, trí thức lẫn bình dân khắp năm châu, mà sau khi Ấn Độ thu hồi độc lập từ chính quyền Anh quốc vào năm 1947, ông Jawaharlal Nehru (1989-1964), vị thủ tướng Ấn đầu tiên đã chỉ thị cho nhà cầm quyền các tiểu bang nỗ lực trùng tu, sửa sang lại tất cả những thánh tích Phật giáo Ấn Độ.

Hiện nay, di tích các Phật tích còn lại trên đất Ấn rất nhiều, ngoài năm thánh tích danh tiếng: Ca Tỳ La Vệ, Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Lộc Uyển và Câu Thi Na; còn có bốn thánh tích quan trọng khác sau đây, đó là: thành Xá Vệ (Pali hay P: Savatthi; Sanskrit hay Skt.: Sravasti), nơi đức Phật đã thường trú 24 năm, và thuyết tại đây nhiều bộ kinh Đại Thừa quan trọng, trong đó có kinh A Di Đà, mà quý vị Phật tử thường tụng vào dịp lễ cầu siêu; thành Vương Xá (P: Rajagaha; Skt.: Rajagriha), nơi đức Phật đã thuyết kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu (tiếng Ấn: Gridhrakuta); Tỳ Xá Li (P: Vesali; Skt.: Vaisali), nơi đức Phật lần đầu tiên chấp nhận cho hàng nữ giới xuất gia; và Sankasya (P: Sankassa), ghi dấu nơi đức Phật đã từ cung trời Đao Lợi trở về trần thế, sau khi Ngài vận thần thông lên đó để thuyết giảng luận A Tỳ Đạt Ma (P: Abhidhamma; Skt.: Abhidharma) cho hoàng hậu Ma Gia (thân mẫu của Ngài) và chư thiên.

Ngoài 9 Phật tích trên, còn rất nhiều thánh tích khác như Nalanda, Kausambi v.v… là những nơi khi còn tại thế, đức Phật thường lui tới thuyết pháp cho dân chúng. Tất cả những Phật tích này, trong thời gian gần 12 năm du học tại Ấn Độ, chúng tôi may mắn có đầy đủ phước duyên, đã được đến chiêm bái, và tụng kinh cầu nguyện, nơi nào ít nhất cũng là 2 lần, nhiều thánh tích chúng tôi đến viếng thăm và lễ lạy tới 3 hay 5 lần.

Để giúp quý Phật tử hiểu biết qua, trước khi có duyên lành đến chiêm bái tại chỗ; mở đầu loạt bài viết về “Lược sử các Thánh Tích Phật giáo tại Ấn Độ”, chúng tôi xin giới thiệu trước hết, thánh tích Ca Tỳ La Vệ.

THÀNH CA TỲ LA VỆ (KAPILAVASTU)

QUÊ HƯƠNG CỦA ÐỨC PHẬT

I. CA TỲ LA VỆ THỜI ĐỨC PHẬT

            A. NGUỒN GỐC VÀ SỰ THÀNH LẬP

Ca Tỳ La Vệ (P: Kapilavatthu; Skt.: Kapilavastu), ngày nay có tên là Padaria, vào thời đức Phật tại thế, là thủ đô của vương quốc thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyas), dưới quyền trị vì của vua Tịnh Phạn (P: Suddhodana). Ca Tỳ La Vệ, vào thời ấy, là một thuộc quốc của nước Kiều Tát La (Kosala). Nhà vua bấy giờ cai trị Kosala là Ba Tư Nặc (P: Pasenadi; Skt.: Prasenajit), có kinh đô đóng tại thành Xá Vệ (Skt.: Sravasti), miền đông bắc Ấn Độ.

Theo sử liệu ghi chép trong các kinh sách, vị thủy tổ của dòng họ Thích Ca (Sakyans) và sáng lập vương quốc Thích Ca là vua Okkaka thuộc triều đại Solar (Thái Dương). Vua Okkaka bấy giờ đóng đô tại Saketa (có thuyết cho rằng Saketa là cựu kinh đô trước kia của xứ Kosala). Về sau, vua Okkaka, vì sủng ái nàng thứ phi nên đã âm mưu với bà này, lưu đày các hoàng tử và công chúa, con của hoàng hậu, vợ chánh của nhà vua.

Theo tục truyền, một hôm, bốn hoàng tử con vua Okkaka là Ukkamukha, Karakanda, Hatthinika và Nipura, trong cuộc lưu đày, đi về hướng Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya), mong tìm địa điểm để thành lập một tiểu quốc mới. Họ đến gặp hiền sĩ Kapila, có tài tiên tri, và vị này bảo cho họ biết rằng, bất cứ kinh thành nào được thiết lập nơi vùng đất ông ta đang ẩn tu, sau này vương quốc và chủng tộc đó sẽ phồn thịnh, phú cường. Nghe theo lời chỉ giáo của đạo sĩ Kapila, các hoàng tử con vua Okkaka bèn lập kinh thành tại đó, và dùng tên vị ẩn sĩ Kapila để đặt cho vương quốc mới của họ là Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ).

Về sau, ba trong bốn hoàng tử nói trên qua đời, vị hoàng tử thứ tư còn sống, một mình lãnh đạo nước Ca Tỳ La Vệ. Con của nhà vua này là Kuru. Thái tử con vua Kuru là Sinhahanu (Sư Tử Giáp). Vua Sinhahanu có năm hoàng tử, trong đó Tịnh Phạn (Suddhodana) là con trưởng, bốn người kia là Dhotodana, Sakkodana, Sukkodana và Amitodana, với hai công chúa là Amita và Pamita. Sau khi vua Sinhahanu từ trần, Tịnh Phạn được dân chúng bầu lên làm vua, trị vì vương quốc Thích Ca. Thái tử, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia (Maha Maya) là Tất Đạt Đa (P: Siddhattha), người sau này đã xuất gia, đi tu thành Phật.

           B. LÃNH THỔ VÀ DÂN SỐ

Về vị trí địa dư, chúng ta biết rằng xưa kia, tiểu quốc Thích Ca nằm dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya), hướng đông giáp hai vương quốc Ly Xa (Licchavis) và Ma Kiệt Ðà (Magadha); hướng tây giáp nước Kiều Tát La (Kosala) và phía bắc là sông Rohini, làm ranh giới ngăn chia thành Ca Tỳ La Vệ với thị tộc Câu Ly (Koliya) nằm ở bờ bên kia. Về dân số, theo sử liệu ghi chép của nhà đại luận sư Buddhaghosa (Phật Minh), người Ấn Độ cho biết vào thời đó, đức Phật có chừng 80.000 gia đình thân quyến bên nội, và khoảng bằng con số đó gia đình thân tộc bên ngoại. Theo Dr. Rhys Davids, nếu mỗi gia đình có 6 hoặc 7 người, thì tính ra tổng dân số của thị tộc Thích Ca ở thành Ca Tỳ La Vệ bấy giờ, có thể lên tới khoảng một triệu người.

          C. CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ

Về tổ chức chính trị, vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, bộ tộc Thích Ca (Sakyas) ở Ca Tỳ La Vệ theo chính thể Cộng Hòa (Republic) như các thị tộc Vajjans và Ly Xa (Licchavis) ở thành Tỳ Xá Ly (Vaisali) hay bộ tộc Mạt La (Mallas) ở thành Câu Thi Na (Kusinagara). Dân chúng bầu lên một vị trưởng tộc, tiếng Ấn Độ gọi là “Ràjà” (Vua) để lãnh đạo trong nước. Mọi việc hành chánh và pháp luật của thứ dân đều được mang ra bàn cải và thảo luận ở đại hội, với sự tham dự của mọi giới trẻ cũng như già tại một nơi gọi là “Hội Trường”, được dựng lên thường chỉ có mái che ở trên, còn bốn phía để trống, chứ không có tường vách.

Hội trường này được xem như tòa nhà Quốc Hội hay nghị viện của chế độ dân chủ chúng ta ngày nay. Chính tại Hội Trường này, dân chúng đã họp bầu Tịnh Phạn (Suddhodana) lên làm vua, lãnh đạo vương quốc Thích Ca, sau khi vua cha Sư Tử Giáp (Sinhahanu) băng hà. Cũng tại nơi đây, vấn đề vua Ba Tư Nặc, bấy giờ muốn cầu hôn, cưới làm hoàng hậu một công chúa của bộ tộc Thích Ca, đã được đem ra bàn cãi, thảo luận với dân chúng. Người chủ tọa các buổi đại hội này, thường là vị Trưởng Tộc, tức là nhà vua (Ràjà), do dân chúng tín nhiệm bầu lên.

Về phương diện kinh tế, người dân Ca Tỳ La Vệ phần đông sống bằng nghề nông và nuôi gia súc. Họ thiết lập làng này cách làng kia bởi một khu rừng. Các nông dân thường sống tụ tập chung quanh gần ruộng lúa của họ, còn những người chuyên sống với nghề nuôi gia súc thì đến lập nghiệp ở các miền núi xa xôi. Trong mỗi làng cũng có các thợ thủ công, không thuộc vương tộc Thích Ca (Sakayas) chung sống. Một số người làm các nghề đặc biệt như thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm, sống tại những ngôi làng riêng của họ. Cũng có chợ búa với vài cửa tiệm nhỏ, nhưng chúng ta không nghe nói gì về các thương gia hay chủ ngân hàng, như thường thấy xuất hiện tại nhiều thành phố lớn ở các vương quốc Ấn Độ khác. Trong gia đình, khi người dân có việc ma chay, cưới hỏi, do sự thỉnh cầu, các thầy Bà La Môn (Brahmins) sẽ giúp đỡ cho họ.

          D. ĐỨC PHẬT TRỞ VỀ THĂM CA TỲ LA VỆ.

Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) từ khi rời bỏ cung điện, vượt thành Ca Tỳ La Vệ xuất gia, tu hành thành Phật, chúng ta biết rằng sau này, Ngài có trở về thăm quê hương, nhưng bao nhiêu lần thì theo các học giả, không ai có thể xác định rõ. Tuy nhiên, dưới đây là những lần, được kinh sách ghi chép, đáng cho chúng ta ghi nhớ:

1. Lần thứ nhất

Sau 9 lượt vua Tịnh Phạn cho sứ thần đến cung thỉnh nhưng thất bại; lần chót, đức vua phái ngài Ca Lưu Ðà Di (Kaludayi) đi triệu thỉnh; đức Phật, vào năm đầu tiên, sau khi Ngài chứng Đạo, lần thứ nhất, đã trở về thăm Ca Tỳ La Vệ, trong lúc Ngài đang an cư kiết hạ tại thành Vương Xá (Rajagaha). Vương xá cách xa Ca Tỳ La Vệ 180 dặm (miles), đức Phật cùng với 20.000 đệ tử của Ngài, đã chứng quả A La Hán, đi mất hai tháng mới đến quê nhà. Vua Tịnh Phạn đón tiếp đức Phật tại huê viên Ni Câu Ðà (Nigrodha). Để cảm hóa và khắc phục tánh ngạo mạn của các vị cao niên dòng họ Thích Ca không đảnh lễ khi gặp đức Phật, Ngài liền hóa phép thần thông bay lên hư không, làm cho nước và lửa cùng một lúc phát sanh ra từ lổ chân lông. Vua Tịnh Phạn cùng với các hoàng thân khác, trước oai lực thần thông của đức Phật, tất cả đều đến kính lễ Ngài. Đây là lần thứ ba, vua Tịnh Phạn đảnh lễ con của mình.

            Trong lần trở về thăm Ca Tỳ La Vệ đầu tiên này, đức Phật đã thuyết pháp tại vương cung nhiều lần, và nhờ nghe pháp, vua Tịnh Phạn đã chứng đắc ba quả (trong bốn quả Thánh): Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, và A Na Hàm; còn hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (P: Pajapati Gotami), mẹ nuôi của đức Phật, thì đắc sơ quả Tu Đà Hoàn (quả đầu tiên trong bốn quả Thánh). Ngày thứ hai, đức Phật ghé thăm tư thất của công chúa Da Du Đà La (vợ của đức Phật khi Ngài còn là thái tử Tất Đạt Đa). Sau khi công chúa đảnh lễ đức Phật, Ngài đã thuật cho nàng nghe mẫu chuyện tiền thân Candakinnara, nhắc lại mối liên hệ giữa Ngài và công chúa trong kiếp quá khứ để an ủi bà ta. Ba ngày sau, đức Phật đến thăm hoàng tử Nan Đà (Nanda), con bà di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, em cùng cha khác mẹ với đức Phật, trong lúc Nan Đà đang tổ chức lễ thành hôn. Đức Phật thuyết giảng giáo lý choNanĐà nghe, và sau cùng, ông ta đã giác ngộ, theo Ngài xuất gia làm đệ tử. Một tuần sau, đức Phật lại tế độ cho con của Ngài là La Hầu La (Rahula), mới lên 7 tuổi, xuất gia.

           2. Lần thứ hai

Vào hạ thứ năm, đức Phật đang an cư tại tịnh xá Đại Lâm (Mahavana), gần thành Tỳ Xá Ly (Vaisali), khi được tin vua Tịnh Phạn lâm bệnh nặng, lần thứ hai, Ngài trở về Ca Tỳ La Vệ, đến tận phòng để thăm và thuyết pháp cho vua cha nghe. Đức vua sau đó, đã chứng đắc quả A La Hán (quả thứ tư cao nhất trong bốn quả Thánh), nhập định trong 7 ngày và viên tịch luôn. Sau khi làm lễ hỏa táng vua Tịnh Phạn xong, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, đến đảnh lễ đức Phật, bấy giờ đang ngự tại chùa Nigrodha, và thỉnh cầu Ngài hoan hỷ cho phép hàng nữ giới được xuất gia, nhưng đức Phật đã một mực từ chối. Cũng trong chuyến về thăm quê nhà lần này, đức Phật đã dàn xếp giúp đỡ cho hai thân tộc Thích Ca (Sakyas) và Câu Ly (Koliya) tránh được một cuộc giao tranh, vì hai bên giành nước tưới ruộng từ con sông Rohini. Cảm phục ân đức hòa giải của đức Phật, vào lúc ấy, cả hai họ tộc mỗi bên đã khuyến khích cho phép 250 thanh niên, gồm tổng số 500 người theo đức Phật đi tu, gia nhập đoàn thể Tăng già.

3. Lần thứ ba.

Để ngăn chận vua Tỳ Lưu Ly (P: Vidudabha; Skt.: Virudhaka), con vua Ba Tư Nặc, nước Kiều Tất La (Kosala), vì cừu oán xưa, đem quân quyết tiêu diệt dòng họ Thích Ca (Sakyas) nên lần thứ ba, đức Phật trở về thăm quê nhà. Kinh sách ghi chép rằng, ba lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu Ly gặp đức Phật xuất hiện ở bên ngoài thành Ca Tỳ La Vệ để ngăn cản, khiến Tỳ Lưu Ly phải rút quân về. Nhưng đến lần thứ tư, vì biết nghiệp nhân quá khứ của dòng họ Thích Ca quá nặng, không cách gì ngăn tránh quả báo được nữa, nên đức Phật đã không can thiệp vào, và cuối cùng, phần lớn dòng họ Thích Ca ở thành Ca Tỳ La Vệ đã bị Tỳ Lưu Ly mang quân xâm lăng sát hại.

            II. CA TỲ LA VỆ QUA KÝ SỰ CỦA CÁC NHÀ HÀNH HƯƠNG TRUNG QUỐC

A. KÝ SỰ CỦA NGÀI PHÁP HIỂN (FA-HIEN) 399-414.

            Ngài Pháp Hiển (Fa-Hien), danh tăng Trung Hoa đến chiêm bái Ca Tỳ La Vệ vào năm 403 tây lịch, đã diễn tả thành này như sau:

            “… Đi về hướng đông khoảng một yojana hay do tuần (bằng 7 dặm), du khách sẽ đến thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Trong hoàng thành không có vua, cũng chẳng thấy người. Toàn cảnh chỉ là dấu vết của sự đổ nát, hoang tàn, và những mô đất không có người ở. Chúng tôi gặp một vài nhà sư, và khoảng vài chục gia đình nông dân… Khắp thành Ca Tỳ La Vệ đều hoang vắng, dân chúng rất ít và sống thưa thớt. Trên đường đi, du khách phải cẩn thận đề phòng chống lại mấy con bạch tượng và sư tử…”

Trích “Fa-Hien’s Record of Buddhistic Kingdoms”, translated of Chinese Text, by James Legge (“Ký Sự về các Vương Quốc Phật Giáo” của Ngài Pháp Hiển) Chương 21, trang 64; Chương 22, trang 68.

B. KÝ SỰ CỦA NGÀI HUYỀN TRANG (HIUEN TSIANG) 629-645.

Qua ký sự của Ngài Huyền Trang dưới đây chúng ta thấy có nhiều sự diễn tả sai khác về thành Ca Tỳ La Vệ, giữa hai nhà hành hương, Huyền Trang và Pháp Hiển, lý do bởi vì, theo học giả Vincent A. Smith, ngài Pháp Hiển xác định vị trí Ca Tỳ La Vệ nằm cách vườn Lâm Tỳ Ni (nơi đức Phật giáng sanh) khoảng 9 dặm (miles) về hướng tây; trong khi ngài Huyền Trang lại bảo rằng từ 15 đến 16 dặm (1 mile: 1 km 609). Và điều này có nghĩa là, đối với hai danh Tăng Trung Hoa nói trên, có hai nơi khác nhau được xem như là thành Ca Tỳ La Vệ.

Ngài Huyền Trang đến thăm Ca Tỳ La Vệ vào năm 636 tây lịch, sau ngài Pháp Hiển (Fa-Hien) khoảng 233 năm, đã ghi chép trong tập ký sự “Tây Du Ký” (Si Yu Ki) của Ngài như sau:

“…Từ thành Xá Vệ (Sravasti) đi về hướng đông nam khoảng 500 lý (tiếng Tàu: Li) hay hơn 166 dặm (1 lý: 1 phần 3 dặm), chúng tôi đến thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu).Chuvi của vương quốc này rộng chừng 4.000 lý (hơn 1.333 dặm). Tại đây hiện còn độ 10 thành phố hoang sơ, hầu hết vắng vẻ và điêu tàn. Kinh đô đã bị phá hủy và trong cảnh đổ nát.Chuvi của nó không thể biết rộng bao nhiêu. Khu vực hoàng cung ở trong thành rộng vào khoảng 14 hay 15 lý (5 dặm). Tất cả thành xây bằng gạch. Nền của thành đang còn rắn chắc và cao. Các làng dân chúng đều thưa thớt và hoang vắng.

Không có nhà cầm quyền tối cao. Mỗi thành phố bầu lên vị lãnh đạo riêng của họ. Đất đai màu mỡ, phì nhiêu, và trồng trọt theo từng mùa. Khí hậu đồng nhất, tánh tình dân chúng hiền lành và ưa giúp đỡ. Có khoảng hơn 1.000 di tích các ngôi chùa đổ nát còn lại, bên cạnh khu vực của hoàng gia thấy có một ngôi chùa với chừng 30 tín đồ đang học hỏi giáo phái Chánh Lượng Bộ (Sammatiya) của Tiểu Thừa. Trong khu vực hoàng cung thấy có những khu nền của các tường thành đổ nát; đây chính là di tích cung điện của vua Tịnh Phạn, trên đó người ta xây cất một ngôi chùa, bên trong tôn trí một pho tượng của đức vua. Không xa nơi này là một cái nền đổ nát khác, di tích cung điện nghỉ ngơi của hoàng hậu Ma Gia (vợ vua Tịnh Phạn); trên đó, dân làng xây dựng một ngôi chùa, bên trong đặt một pho tượng của hoàng hậu….

“…Tại khu vực đông nam của thành Ca Tỳ La Vệ là một ngôi chùa, bên trong tôn trí hình tượng của thái tử (Tất Đạt Đa), đang cởi trên lưng ngựa trắng, ghi dấu nơi thái tử đã rời hoàng thành. Bên ngoài trước mỗi một trong 4 cửa thành, người ta dựng một ngôi chùa, bên trong mỗi chùa bài trí một ảnh tượng trong 4 cảnh sau đây: người già, người bệnh, người chết và một vị Sa Môn. Đây là những nơi ghi dấu xưa kia thái tử đi xe ra dạo chơi ngoài thành, tiếp xúc với mọi cảnh khổ của dân chúng, khiến thái tử đâm buồn chán, không còn ham thích thú vui trần thế, và đã bảo tên hầu cận (Xa Nặc) quay xe trở lại hoàng cung….

“…Về hướng tây bắc của kinh thành, thấy có hàng trăm và hàng ngàn ngọn tháp, ghi dấu những nơi xưa kia các thân tộc của dòng họ Thích Ca đã bị quân của Tỳ Lưu Ly (Virudhaka) tắm máu. Vua Tỳ Lưu Ly, vì hận thù ngày trước, sau khi xâm lăng đánh bại quân của hoàng tộc Thích Ca, đã bắt vô số dân chúng Ca Tỳ La Vệ lên đến 9.999 người và ra lệnh cho tàn sát hết. Xác người chết chất chồng như rạ, và máu lai láng chảy thành hồ….”.

Trích “Buddhist Records of the Western World”, translated from the Chinese of Hiuen Tsiang, by Samuel Beal (“Tây Du Ký” của Ngài Huyền Trang), Quyển VI, trang 13,14,15,18 và 20.

             III. CA TỲ LA VỆ NGÀY NAY.

Theo sự nghiên cứu của các học giả Vincent A. Smith, Dr. Vost, Dr. Rhys Davids, P.C. Mukherji và Nundo Lal Dey, cho chúng ta biết rằng, thành Ca Tỳ La Vệ của vua Tịnh Phạn ngày xưa, hiện nay nằm trên bờ phía đông của sông Banganga, bao gồm các làng Chitra-Dei Ramghat, Sandwa và Tilaurakota (thuộc xứ Nepal), trong đó Tilaurakota được các nhà khảo cổ xác nhận như là thành lũy và cung điện trước kia của vua Tịnh Phạn. Tilaurakota hiện nằm ở địa hạt Terai trong vùng biên giới của hai nước Nepal – Ấn Độ, xa chợ Taulihawa một dặm rưởi. Chợ này cách khoảng 12 dặm về hướng bắc và đông bắc của ga Shoharatgarh, nằm trên tuyến đường hỏa xa đông bắc Ấn Độ (North-Eastern Railway). Con đường 12 dặm từ nhà ga này đến chợ Taulihawa, phương tiện giao thông duy nhất là chúng ta chỉ có thể đi bộ, dùng xe bò hay xe ngựa, vì đường xe hơi lúc bấy giờ chưa thiết lập.

Toàn khu vực rộng lớn xung quanh chợ Taulihawa hiện nay đang còn trông vẻ cổ kính của thành Ca Tỳ La Vệ ngày xưa. Trải qua hàng chục thế kỷ cả vùng này cũng như các miền chung quanh làng Tilaurakota đều hoang vắng, ít người ở; và ngày nay nó mới chỉ được các nhà nghiên cứu, khảo cổ khám phá, biết rõ một phần nào mà thôi. Dân chúng thỉnh thoảng đào đất và bất chợt tìm thấy rải rác tại đây các pho tượng, đồ đất nung, và những đồng tiền bằng kim loại; đôi khi gặp cả tiền vàng và chuổi tiền đồng v.v… Gần 20 năm trước, kể từ khi giáo hội Tăng Già Phật Giáo Nepal thành lập, các Thượng tọa như Bhadanta Dhammaloka, Aniruddha và nhiều đại đức khác trong giáo hội, đã nghĩ đến việc tìm cách duy trì và bảo vệ thánh tích Ca Tỳ La Vệ thiêng liêng này. Trong thời gian đó, chính phủ Nepal cũng đã ủy thác cho Nha Khảo Cổ (Archaeological Department) trùng tu, chăm sóc các Phật tích trong vùng Terai, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. Đặc biệt với sự tài trợ, giúp đỡ của Nha Khảo Cổ, đại học Mahendra tại Kathmandu (Nepal), trong nhiều năm qua, đã thu được vô số thành quả tốt đẹp trong công tác khai quật, khám phá tại vùng Tilaurakota, Piparahawa và các nơi khác, để mong tìm thấy thêm các chứng tích lịch sử về thành Ca Tỳ La Vệ.

            IV. CÁC DI TÍCH TẠI THÀNH CA TỲ LA VỆ.

Dưới đây là các di tích hiện còn tại Ca Tỳ La Vệ mà du khách hành hương có thể chiêm bái tại chỗ khi đến viếng thánh tích này.

1. Kudàna

Kudana là một ngôi làng cách chợ Taulihawà khoảng hơn hai cây số về hướng nam. Tại đây có hai mô đất (ngọn tháp) lớn bằng gạch và bằng đất; dân địa phương gọi là Lori-Ki-Kudana. Người ta tin có thể chỗ này là nơi đản sanh của đức Phật quá khứ Krakucchanda (Câu Lưu Tôn) và thân phụ của Ngài. Krakucchanda (P: Kakusandha) là đức Phật thứ nhất trong đời Hiền Kiếp (Bhadra-Kalpa) này, và là đức Phật thứ tư trong 7 vị cổ Phật (thất Phật). Theo kinh sách ghi chép, Ngài là con của Aggidatta, theo đạo Bà La Môn; và mẹ là Visakha. Ngài viên tịch, hưởng thọ 40.000 tuổi. Có thuyết cho rằng Kudana là nơi xưa kia đức Phật Thích Ca, sau khi đắc đạo, về thăm Ca Tỳ La Vệ, gặp đức vua Tịnh Phạn, và là chỗ 500 người dòng họ Thích Ca (Sakyas) quy y Tam Bảo; cũng chính tại nơi này, đức Phật thuyết pháp cho hàng chư thiên.

 Ngài Huyền Trang, trong tập “Tây Du Ký”, đã ghi lại cảnh trí ở đây như sau:

“…Từ hướng nam của thành Ca Tỳ La Vệ, đi chừng 50 lý (hơn 16 dặm), chúng tôi đến một thành phố xưa, nơi đây thấy có xây một ngọn tháp, ghi dấu chỗ đản sanh của đức Phật Câu Lưu Tôn (Krakucchanda) trong đời Hiền Kiếp, lúc ấy con người sống đến 60.000 tuổi thọ…”

Trích “Tây Du Ký” của Ngài Huyền Trang, bản dịch tiếng Anh của Samuel Beal, quyển VI, trang 18.

Ngài Pháp Hiển (Fa-Hien) cũng có ghi lại trong tập Ký Sự, khi ngài đến viếng nơi này:

“…Từ thành Xá Vệ (Sravasti) đi về hướng đông nam chừng 12 do tuần (bằng 84 dặm), du khách đến một thành phố, được xem là nơi đản sanh của đức Phật Câu Lưu Tôn (Krakucchanda). Tại nơi Ngài gặp thân phụ của Ngài và chỗ Ngài nhập Niết Bàn, đều có xây dựng trụ đá…”

Trích “Ký Sự về các Vương Quốc Phật Giáo” của Ngài Pháp Hiển, bản dịch tiếng Anh của James Legge, Chương 21, trang 64.

2. Nigalhawà

Nigalihawa là tên một ngôi làng, cách chợ Taulihawa 4 dặm về hướng bắc. Đây là nơi ghi dấu chỗ ra đời của đức Phật quá khứ Câu Na Hàm Mâu Ni, (P: Konagamana; Skt.: Kanakamuni). Kanakamuni là đức Phật thứ năm trong bảy vị cổ Phật (thất Phật), và là đức Phật thứ nhì trong đời Hiền Kiếp (Bhadra-Kalpa) này. Theo Đại Sử (Mahavamsa) của Tích Lan, đức Phật Kanakamuni sinh trong một gia đình Bà La Môn. Thân phụ của Ngài là Yannadatta, và mẹ là Uttara. Ngài nhập diệt, hưởng thọ 3.000 tuổi.

Gần làng Nigalihawa có một cái hồ lớn, dân chúng địa phương gọi là hồ Nigali. Vào năm 1899, người ta đào thấy ở đây một trụ đá bị gãy đôi của vua A Dục, phần trên dài gần năm thước, bị lấp trong lùm cây cạnh bờ hồ, và phần dưới dài gần một thước, nằm trên mặt đất. Phần trên của trụ đá có ghi hàng chữ Tây Tạng, với câu chú: “OM MANI PADME HUNG” (Án Ma Ni Bát Di Hồng) và trên dòng chữ này có khắc hình hai con công. Phần nửa trụ đá dưới có khắc hàng chữ Brahmi (tiếng Ấn Độ thời cổ), ghi lại chuyến đến thăm Ca Tỳ La Vệ của vua A Dục (Asoka), khi Ngài từ vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) trở về, như sau:

            Devanam piyena Piyadasina lajina chodasavasa (bhisi) tena

            Budhasa Kranaka manas thube dutiyam baddhite (Bisa-tiva)

            Sabhistena cha atana agacha mahiyite (Sila thube cha us)

            Papite…

Phỏng dịch: “Hoàng đế A Dục (Piyadasina) vào năm thứ 14 triều đại vua này, đã mở rộng lần thứ hai, tháp của đức Phật Câu Na Hàm (Kanaka), và đến năm thứ 20 triều đại của Ngài, nhà vua đã đích thân đến đây để lễ bái và cho xây dựng trụ đá”.

Trong tập “Tây Du Ký”, ngài Huyền Trang cũng có ghi chép về chỗ này:

“…Từ thành phố của đức Phật Câu Lưu Tôn (Krakucchanda), đi khoảng 30 lý (10 dặm) về hướng đông bắc, chúng tôi đến một kinh thành cổ, trong đó có một ngọn tháp (Stupa). Tháp này là nơi kỷ niệm, đánh dấu trong đời Hiền Kiếp, vào lúc con người sống đến 40.000 tuổi thọ, đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni) đã ra đời tại đây…

“Xa hơn về phía bắc có một ngọn tháp thờ xá lợi (xương tro) của đức Phật Kanakamuni, phía trước ngôi tháp, vua A Dục cho dựng một trụ đá cao 20 feet (độ hơn 6 thước tây), trên chóp có khắc hình con sư tử. Trên mặt trụ đá ghi khắc biến cố ngày nhập Niết Bàn của Ngài….”

Trích tập “Tây Du Ký” của Ngài Huyền Trang, bản dịch tiếng Anh của Samuel Beal, quyển VI, trang 19.

3. Tháp Piparahawà

Theo học giả V.A. Smith, tháp Piparahawà nằm cách làng Tilaurakota 10 dặm về hướng bắc và tây bắc, trong khi nhà khảo cứu J. Fleet xác định vùng này cách xa khoảng 10 dặm thành phố Nowgarh trong quận Basti của Ấn Độ. Ông V.A. Smith cho rằng đây là ngôi tháp danh tiếng và ý nghĩa nhất trong vùng. Ông cũng tin rằng có thể các di tích tìm thấy ở vùng Piparahawà đại diện cho thành Ca Tỳ La Vệ của ngài Pháp Hiển (Fa-Hien); còn những di tích khám phá tìm ra ở Tilaurakota là Ca Tỳ La Vệ của ngài Huyền Trang (Hiuen Tsiang).

Dr. Rhys Davids lại bảo có thể di tích ở Tilauràkota là thành Ca Tỳ La Vệ củ thời vua Tịnh Phạn, còn tại Piparahawà là thành mới được xây cất sau khi thành Ca Tỳ La Vệ xưa bị quân của vua Tỳ Lưu Ly tàn phá, hũy diệt. Nhưng lý thuyết về hai Ca Tỳ La Vệ đã bị Dr. Hoey và Dr. W. Vost hoàn toàn bác bỏ trong bài khảo cứu của hai học giả này đăng ở “Journal of the Royal Asiatic Society” (Tạp chí của Hội Hoàng Gia Á Châu) ấn hành năm 1906 tại Luân Đôn (London), Anh Quốc, trang 453 và 553.

Trở lại tháp Piparahawà, có thuyết cho rằng đây là nơi đã xảy ra cuộc tắm máu dòng họ Thích Ca của quân vua Tỳ Lưu Ly, khi qua xâm lăng Ca Tỳ La Vệ. Ngôi tháp tại làng Piparahawà này, theo tài liệu của Dr. Buhler cho biết, lần đầu tiên do ông W.C. Peppé khám phá ra vào tháng giêng năm 1898. Theo J.F. Fleet, ngọn tháp có thể được xây cất khoảng vào năm 482 B.C. (trước Tây lịch). Trong tháp người ta tìm thấy một cái hòm lớn bằng sa thạch (sandstone), trong đựng năm cái bình (vessels) xá lợi (relics), gồm có ba cái bình bằng đá, một cái hộp nhỏ bằng đá và một cái bát bằng thủy tinh có tay cầm. Năm bình xá lợi này, theo hai nhà khảo cứu J.F. Fleet và Edward J. Thomas cho biết, chứa đựng đủ thứ: chuổi tràng bằng đá và đất sét, chuổi hột, đồ trang sức bằng vàng, hơn 1.000 mẫu hình vuông và ngôi sao bằng vàng lá có khắc hình con sư tử, nhiều đá quý và xá lợi v.v… Quanh vành nắp của một trong những bình xá lợi bằng đá nói trên có khắc các dòng chữ tiếng Brahmi, thời cổ Ấn Độ, giống ở các trụ đá vua A Dục, như sau:

Sukiti bhatinam sabhaginikanam saputadalanam

Iyam salita nidhane Budhasa bhagavate sakiyanam

mà theo các học giả A. Barth, Dr. Buhler, Dr. Rhys Davids, và R. Pischel, có nghĩa là:

“Đây là xá lợi của đức Phật, đấng Thế Tôn, được chôn cất bởi thân tộc của dòng họ Thích Ca, với những người chị, con, và chồng của họ”.

 4.  Saharawà

Chỗ này xa làng Tilauràkota hai dặm về hướng bắc và cách chợ Taulihawà một dặm rưởi về hướng tây nam. Ông V.A. Smith cho biết, do kết quả khai quật của nhà khảo cổ A. Fuhrer, 17 ngôi tháp nhỏ được tìm thấy tại đây vào tháng giêng năm 1898, có thể là nơi ghi dấu hoàng tộc Thích Ca bị quân Tỳ Lưu Ly tàn sát. Ông V.A. Smith viết: “Trên mặt nền của mỗi ngọn tháp, ở lớp đất thấp nhất có 9, 7 và 5 viên gạch – ở giữa mỗi tấm gạch có khắc các mẩu hình hoa sen nở lớn, dưới là những hộp xá lợi, được chôn gắn vào lòng đất. Trên mặt của những viên gạch ở lớp đất khác, có khắc hình tượng của những vũ khí như cái chùy, rìu, đinh ba (tridents) và các vũ khí thời cổ khác, chứng tỏ rằng những ngôi tháp này được xây lên để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Ca Tỳ La Vệ, đã thần thánh hy sinh vì đại cuộc.”

Có thuyết cho rằng, sau cuộc tắm máu của quân Tỳ Lưu Ly, đức Phật đã phóng quang tiếp dẫn hương linh các nạn nhân dòng họ Thích Ca, có thiện nghiệp bị giết hại, được vãng sanh về cõi An Lạc.

5. Vardahawà và Hồ Nước Kunàun

Làng Vardahawà nằm cách Kudàna (nơi đức Phật Câu Lưu Tôn đản sanh) một dặm rưởi về hướng đông. Gần chỗ này hiện còn một số di tích đổ nát và tượng của một con bò đực bằng đá mà người ta tin rằng có thể là nơi ghi dấu chỗ xưa kia xây cất ngôi tháp thờ xá lợi của đức Phật. Giữa Vardahawà và Kudàna có một cái hồ, dân địa phương gọi là hồ Kunaùn. Người ta tin rằng đây là nơi mũi tên của thái tử Tất Đạt Đa, trong cuộc thi bắn cung ngày xưa, để cưới công chúa Da Du Đà La, rớt xuống đất, tạo thành một ngọn suối, mà dân chúng địa phương thời đó gọi là “Sarakupa” có nghĩa là “suối mũi tên” (arrow fountain); và suối này đã trở thành hồ nước Kunaùn còn đến ngày nay.

Trong tập “Tây Du Ký”, ngài Huyền Trang khi đến chiêm bái ở đây, đã viết:

“… Ngoài cửa thành phía nam, trên đường bên tay trái là ngọn tháp ghi dấu nơi thái tử thi tài võ nghệ với các vương tử dòng họ Thích Ca, và làm xuyên thủng tấm bia bằng sắt với mũi tên của người. Từ đây đi về hướng đông nam 30 lý (10 dặm), chúng tôi thấy một ngôi tháp nhỏ, nơi này có một ngọn suối, nước trong như gương. Chính tại đây trong cuộc đấu võ, mũi tên của thái tử, sau khi xuyên thủng tấm bia, đã rớt xuống và chôn sâu vào đất, tạo nên một dòng suối nước trong chảy ra. Tục truyền người ta gọi đây là “Sarakupa” hay “suối nước mũi tên”. Những người đau ốm uống nước suối này, phần đông đều khỏi bệnh; do đó, người ở xa thường đến đây lấy nước với ít bùn, mang về đắp lên chổ bị đau, tức thì họ lành bệnh…”

Trích “Tây Du Ký” của Ngài Huyền Trang, bản dịch tiếng Anh của Samuel Beal, quyển VI, trang 23, 24.

Trong tập ký sự, ngài Pháp Hiển, sau khi đến thăm nơi này, đã ghi chép:

“… Đây là nơi thái tử bắn mũi tên về hướng đông nam, mũi tên bay đi xa 30 lý (10 dặm) rơi xuống đất, tạo nên một dòng nước phun ra, mà sau này người ta đã biến thành một suối nước, du khách có thể dùng để uống…”

Trích tập “Ký Sự về các Vương Quốc Phật Giáo” của Ngài Pháp Hiển, bản dịch tiếng Anh của James Legge, Chương 22, trang 65, 66.

             V. CHÚNG TÔI ĐẾN THĂM CA TỲ LA VỆ

Sau khi hoàn tất chương trình Tiến Sĩ (Ph.D.) tại đại học Magadha (Ma Kiệt Đà), thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ, vào tháng 4 năm 1976; khoảng 5, 6 tháng sau trong năm đó, nhân chuyến đi thăm đại học Mahendra tại Kathmandu ở vương quốc Nepal, để sưu tầm tài liệu viết về các thánh tích Phật Giáo Ấn Độ, chúng tôi đã đến chiêm bái Ca Tỳ La Vệ; và trong chuyến hành hương này, chúng tôi chỉ đi một mình. Vì biết rõ lúc bấy giờ, chưa có phương tiện giao thong tiện lợi, đường bộ cũng như xe lửa, giữa thủ đô Kathmandu với Ca Tỳ La Vệ, gần vùng biên giới Nepal-Ấn Độ; cho nên, để thuận đường đi, chúng tôi buộc lòng phải ghé thăm Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) trước khi đến viếng Kathmandu. Đại Học Ma Kiệt Đà, chúng tôi đang ở, cách Buddha Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), nơi đức Phật Thành Đạo xưa kia, non hai cây số. Từ Buddha Gaya, chúng tôi đi xe buýt (bus) đến Gaya, xa độ 6 dặm, mất chừng nửa giờ. Tại Gaya, chúng tôi đi xe lửa về Patna, thủ đô của tiểu bang Bihar, để từ Patna, chúng tôi đáp tàu lửa, trên tuyến đường hỏa xa Đông Bắc Ấn Độ (North-Eastern Railway) đi Shoharatgarh, một thành phố nằm sát biên giới Ấn Độ và Nepal.

Muốn đến chiêm bái thánh tích Ca Tỳ La Vệ, ga Shoharatgarh là địa điểm thuận lợi nhất, có đường bộ cho du khách hành hương đến Ca Tỳ La Vệ. Không biết lúc này chính phủ Ấn Độ đã thiết lập đường xe hơi chưa? Chứ khi chúng tôi đi (vào năm 1976) thì phương tiện duy nhất từ Shoharatgarh đến Ca Tỳ La Vệ là dùng xe bò hay xe ngựa mà thôi. Chúng tôi đến ga Shoharatgarh lúc trời gần tối. Sau khi đi tìm khách sạn gửi hành lý để ngủ lại đêm, vì ở đây không có chùa Phật Giáo; việc đầu tiên của chúng tôi là đi thuê trước một chiếc xe ngựa (khứ hồi cả đi lẩn về), để sáng mai lên đường sớm. Năm giờ sáng hôm sau, chúng tôi đã bắt đầu rời khách sạn để đi xe ngựa đến Ca Tỳ La vệ, vì chúng tôi muốn đi thật sớm để kịp thì giờ trở về trong ngày. Từ Shoharatgarh, nơi đầu tiên chúng tôi đến là chợ Taulihawà (tiếng địa phương gọi là “Taulihawà bazàr”, bazàr nghĩa là chợ. Chúng tôi ghi nguyên danh từ dân bản xứ gọi, để sau này có dịp qua Ấn Độ chiêm bái Phật tích, quý vị có thể tự mình hỏi đường mà đi, không khó khăn gì).

Shoharatgarh cách chợ Taulihawà khoảng 12 dặm (gần 20 cây số), xe ngựa đi mất gần 3 tiếng rưởi đồng hồ mới tới, vì đường đi chật hẹp, quanh co, gồ ghề. Có nhiều đoạn chúng tôi phải xuống xe đi bộ. Đến chợ Taulihawà khoảng trước 9 giờ sáng, sau khi nghỉ ngơi giây lát, chúng tôi hỏi thăm nhờ người địa phương ở đây hướng dẩn đến làng Tilauràkota, cách chợ Taulihawà chừng 2 cây số rưởi, để thăm thành Ca Tỳ La Vệ. Khúc đường này, chúng tôi đi bộ chứ không đi xe ngựa được. Như trước chúng tôi đã nói, theo các học giả Dr. Rhys Davids, V.A. Smith, Dr. Vost v.v…, Tilauràkota ngày nay, chính là thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) của vua Tịnh Phạn ngày xưa. Sau khi viếng thăm khắp nơi trong thành, chúng tôi đi viếng thăm một vài di tích gần đó như Kudàna, hồ nước Kunaùn và Sagarahawà; còn các nơi khác quá xa, thì giờ lại eo hẹp, nên chúng tôi rất tiếc đã không đến viếng được.

          Ngôi Chùa Phật Giáo Tại Ca Tỳ La Vệ

Ngoài những di tích vừa kể chúng tôi có đến thăm ngôi chùa Phật Giáo do các gia đình trong thân tộc Thích Ca (Sakyas) kiến lập nên tại chợ Taulihawà, bên ngoài thành Ca Tỳ La Vệ.

Chúng tôi đến đây vào lúc gần 3 giờ chiều, và may mắn được gặp một số Phật tử đang đến chùa lễ Phật. Nhờ trong đó có vài vị bà con với dòng họ Thích Ca, nói rành tiếng Anh, chúng tôi hỏi thăm mới biết chùa này bắt đầu xây cất vào năm 1962, đến nay (1976) được gần 14 năm, phần lớn do sự đóng góp, tài trợ của các Phật tử địa phương. Chùa tuy không to lớn, đồ sộ, nhưng khá đẹp và trang nghiêm, xung quanh bốn phía có thành. Chúng tôi hỏi thăm về hiện tình dòng họ Thích Ca và được họ cho biết hiện nay còn độ dưới 40 gia đình, và gần 100 người thuộc dòng họ Thích Ca; nhưng ở tại thành Ca Tỳ La Vệ chỉ còn 4 hay 5 gia đình, phần đông đi lập nghiệp sinh sống ở phương xa, nhất là tại Kathmandu và các thành phố lớn khác trong xứ Nepal. Trời càng về chiều, ánh nắng vàng yếu ớt chiếu qua núi đồi, câu chuyện giữa chúng tôi và các Phật tử dòng họ Thích Ca càng thêm vui vẻ, đậm đà; nhất là khi quý vị này biết chúng tôi, những người đệ tử Phật xuất gia, cùng mang tên dòng họ “Thích” (Sakya) như họ.

Chúng tôi không rõ chúng tôi là nhà sư Việt Nam thứ mấy có phước duyên được đến thăm quê hương đức Phật, nhưng theo các Phật tử ở đây cho biết, hằng năm số người ngoại quốc đến viếng thăm thánh địa này rất ít, vì Ca Tỳ La Vệ ở quá xa, đường đi trở ngại khó khăn, phương tiện giao thông lại thiếu. Sau hơn nửa giờ ghé thăm chùa, chúng tôi sửa soạn trở về, vì trời cũng đã chiều. Trước khi từ giã, chúng tôi không quên gửi cúng dường chùa 100 rúp-pi (rupees) tiền Ấn (bằng khoảng 12 mỹ kim). Các Phật tử đưa chúng tôi ra xe, với nét mặt thoáng buồn diệu vợi. Mới gặp nhau lần đầu, nhưng qua đạo tình thắm thiết của người con Phật, chúng tôi cảm thấy như đã quen thân nhau từ trước; nên không khỏi bùi ngùi luyến tiếc lúc chia tay. Những Phật tử thành Ca Tỳ La chấp tay cung kính vái chào chúng tôi lần cuối, tôi leo lên xe. Chiếc xe ngựa bắt đầu chuyển bánh, lăn từ từ xa lần, trong lúc lòng kẻ ở người đi, đôi bên đều mang nặng nỗi buồn man mác.

Trên đường trở về, hình ảnh một Ca Tỳ La Vệ điêu tàn, sau hơn 7 tiếng đồng hồ viếng thăm, cứ mãi hiện ra trong óc, khiến chúng tôi không khỏi hồi tưởng, nhớ đến thành Ca Tỳ La Vệ ngày xưa thời Phật còn tại thế, ghi lại qua kinh sách, với cung điện nguy nga, lâu đài tráng lệ, cửa nhà đông đúc, dân nước phú cường, mà lòng mãi nhớ tiếc không nguôi. Rồi chúng tôi tự tìm nguồn an ủi qua lời Phật dạy:

“Cuộc đời vô thường, vạn vật có sanh tất có diệt”. Thực vậy, mặc dù Ca Tỳ La Vệ ngày nay không còn huy hoàng như xưa, nhưng thành Ca Tỳ La, quê hương của đức Phật với giáo pháp cao siêu của Ngài, đã đi vào lịch sử, ánh đạo vàng ngàn đời rạng chiếu khắp năm châu. Ca Tỳ La Vệ sẽ sống mãi trong lòng thành kính của hàng trăm triệu Phật giáo đồ trên toàn thế giới.

Mãi nghĩ ngợi về sự thịnh suy của thành Ca Tỳ La Vệ, chúng tôi quên cả khoảng đường xa trở về, và thời gian hơn 3 giờ trôi qua thật nhanh, chúng tôi đã về tới Shoharatgarh lúc nào không biết, nhìn đồng hồ thấy hơn 7 giờ tối. Chúng tôi nghỉ lại một đêm nữa tại thành phố nhỏ miền biên giới này để sáng mai lên đường, tiếp tục cuộc hành trình đi thăm đại học Mahendra tại Kathmandu, thủ đô vương quốc Nepal, nằm cạnh chân núi Hy Mã Lạp Sơn Á Châu ngất cao hùng vĩ.

Ôi! Xa rồi cổ thành Ca Tỳ La ngày nay điêu tàn xơ xác, nhưng tinh thần Ca Tỳ La, quê hương của đức Phật, với ánh hào quang chiếu sáng, ngàn đời chúng tôi nhớ mãi không quên. Xa rồi, dân chúng thành Ca Tỳ La tuy nghèo, nhưng lòng người Phật tử Ca Tỳ La hiền lành chất phát, đạo tình thắm thiết, đoàn kết thương yêu, trọn niềm chung thủy, ngàn năm chúng tôi giữ mãi trong tim.

VƯỜN LÂM TỲ NI (LUMBINI)

NƠI ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH

Lâm Tỳ Ni đã trở thành một trong những thánh tích thiêng liêng nhất của Phật giáo, kể từ khi đức Phật đản sanh tại đây, hơn 2.500 năm trước, vào ngày trăng tròn của tháng Vaisakha, khoảng tháng 5 năm 623 trước tây lịch. Thực vậy, trải qua bao thế kỷ, thánh địa này là trung tâm nghiên cứu, hành hương của hàng triệu nhà khảo cổ, học giả, sử gia trứ danh Đông lẫn Tây phương; của các chính khách, lãnh tụ, và Phật tử khắp nơi trên thế giới.

 I. LÂM TỲ NI NGÀY XƯA

Vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch (T.L.), trước thời đức Phật đản sanh, Lâm Tỳ Ni (Lumbini) là một hoa viên, nơi du ngoạn, giải trí chung của hai bộ tộc Thích Ca (Sakyas) thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) và thị tộc Câu Ly (Koliyas) của thành Ramagrama. Hai thị tộc này, từ lâu đời, đã có liên hệ mật thiết thông gia với nhau. Lúc Phật còn tại thế, Ngài có đến thăm Lâm Tỳ Ni một lần trên đường đức Phật du hóa đến thuyết giảng kinh Devadaha (thuộc Trung Bộ Kinh) cho dân chúng tại thành Devadaha, kinh đô của bộ tộc Câu Ly, quê ngoại của Ngài. Sau ngày đức Phật nhập diệt, năm 543 trước T.L, A Dục (Asoka) là vị vua Ấn Độ đầu tiên đến chiêm bái nơi này vào năm 249 trước T.L.

Sau đó, các danh tăng Trung Hoa đến chiêm bái thánh tích Lâm Tỳ Ni đầu tiên là ngài Pháp Hiển (Fa Hien) vào năm 403 T.L., rồi đến ngài Huyền Trang (Hiuen Tsiang) năm 636. Từ đó đến những thế kỷ về sau, Lâm Tỳ Ni đã biến thành một nơi rừng rậm hoang vu, xa xôi hẻo lánh, ít có nhà hành hương nào đến chiêm bái được.

II. LÂM TỲ NI THỜI VUA A DỤC (ASOKA) CỦA ẤN ÐỘ

A Dục Vương là một vị vua Phật tử nhiệt thành, có công đức nhiều nhất đối với nhân loại trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật. Ngài là con vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị vì vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha) vào những năm 298-273 trước T.L., với kinh đô đóng tại Pataliputra (Hoa Thị Thành), nay là thành phố Patna, thủ đô của tiểu bang Bihar, thuộc miền đông Ấn Độ. Vua A Dục lên ngôi lúc ngài 30 tuổi, và mất vào năm 71 tuổi (273-232 trước T.L.). Nhà vua bấy giờ đã tích cực ủng hộ, truyền bá giáo pháp của đức Phật, không những trong nước Ấn Độ, và các quốc gia Á Châu; mà còn lan rộng cả đến Âu và Phi Châu.

Theo sử liệu ghi chép ở tập Divyavadana, vào năm thứ 20 của triều đại A Dục, nhà vua lần đầu tiên viếng Lâm Tỳ Ni vào năm 249 trước T.L., dưới sự hướng dẫn của Đại đức Upagupta. Đoàn người hộ giá theo đức vua, gồm triều thần, quân lính đến bốn tiểu đoàn, với nhiều tràng hoa, hương đèn mang theo để cúng lễ. Họ khởi đầu từ kinh đô Pataliputra (Hoa Thị Thành), qua thị trấn Tỳ Xá Li (Vesali) để đến Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Khi tới thánh địa này, Đại Đức Upagupta, đưa tay chỉ vào một thân cây và nói: “Tâu Đại Vương, đây là nơi đức Phật đản sanh. Bệ hạ nên cho xây dựng trụ đá để ghi dấu, và tỏ bày lòng tôn kinh đức Thế Tôn”. Vua A Dục, sau khi chắp tay kính cẩn hành lễ, Ngài liền truyền lệnh cho xây dựng trụ đá tại đây. Chính nhờ trụ đá này mà về sau nhân loại và các nhà khảo cổ mới biết rõ, và xác định được đức Phật đã giáng sanh hơn 2.500 năm trước.

           III. LÂM TỲ NI QUA KÝ SỰ CỦA CÁC NHÀ HÀNH HƯƠNG TRUNG QUỐC

            A. KÝ SỰ CỦA NGÀI PHÁP HIỂN (FA HIEN) 399-414

Ngài Pháp Hiển, danh tăng Trung Hoa, đến chiêm bái Lâm Tỳ Ni, vào năm 403 T.L., sau vua A Dục khoảng 750 năm đầu tiên đến viếng nơi này. Ngài Pháp Hiển, trong tập ký sự của ngài, đã ghi chép cảnh trí ở đây như sau:

“Cách xa kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) 50 lý (hơn 16 dặm) về hướng đông, chúng tôi đến một hoa viên, gọi là Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi xưa hoàng hậu Ma Gia đã đi xuống hồ nước và tắm. Rời khỏi hồ nước từ bờ hướng bắc, sau khi đi 20 bước, hoàng hậu đưa tay lên vin giữ một nhành cây, với mặt ngoảnh nhìn về hướng bắc, hoàng hậu hạ sanh thái tử. Khi thái tử vừa đặt chân xuống đất, thái tử liền bước đi bảy bước. Hai vị Long Vương (dragon – kings) xuất hiện phun nước tắm cho thái tử, khiến nơi đây tức thì biến thành giếng nước. Hoàng hậu đã đến tắm tại giếng này cũng như hồ nước trên. Ngày nay, ngay cả chư Tăng vẫn thường dùng nước các nơi đó để uống…”

Trích “Fa Hien’s Records Of Buddhistic Kingdoms” translated of Chinese Text, by James Legg (“Ký Sự về các Vương Quốc Phật Giáo của Ngài Pháp Hiển), Chương 22, trang 67.

B.  KÝ SỰ CỦA NGÀI HUYỀN TRANG (HIUEN TSIANG) 629-645

Ngài Huyền Trang, danh tăng Trung Hoa thứ hai, đến chiêm bái Lâm Tỳ Ni khoảng năm 636 T.L., đã ghi chép tương đối khá đầy đủ hơn ngài Pháp Hiển. Trong tập Ký sự “Tây Du Ký” (Si Yu Ki), ngài Huyền Trang đã viết như sau về thánh tích này:

“…Cách xa ‘Suối Mũi Tên’ (Arrow Fountain) về hương đông bắc khoảng 80 hay 90 lý (30 dặm), chúng tôi đến vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Nơi đây thấy có hồ nước tắm của dân làng thị tộc Thích Ca (Sakyas), nước hồ trong sáng như gương; và trên mặt hồ bao phủ đầy những loại hoa. Cách bờ hồ hướng bắc khoảng 24 hay 25 bước là cây Vô Ưu (Asoka) mà hiện nay đã tàn tạ. Đây là nơi Bồ Tát (thái tử) đản sanh… Về phía đông của nơi này là một ngọn tháp (Stupa), do vua A Dục cho dựng nên ngay tại chỗ hai con rồng đã phun nước tắm cho thái tử.

“…Chân thái tử bước đến đâu, nơi đó hoa sen liền nở. Trên không hai con rồng xuất hiện, từ miệng mỗi con phun ra một luồng nước mát và ấm để tắm cho thái tử… Về phía đông của ngôi tháp này là hai ngọn suối nước trong, bên cạnh người ta xây lên hai ngôi tháp. Đây là nơi hai con rồng từ dưới mặt đất hiện ra. Khi Bồ Tát đản sanh, các triều thần và cung phi đi tìm nước khắp nơi để tắm cho thái tử. Vào lúc đó, từ dưới đất phun lên trước mặt Hoàng hậu hai dòng nước lạnh và nóng để tắm cho thái tử.

“Về hướng nam của nơi này là một ngọn tháp khác. Đây là chỗ vua trời Đế Thích, vua của chư Thiên, liền bồng và bọc thái tử trong chiếc áo của thiên thần. Gần đó, có bốn ngọn tháp ghi dấu nơi bốn vị Thiên vương đưa tay ôm thái tử. Khi Bồ tát đản sanh bên phía tay phải của hoàng hậu, bốn vị thiên vương đã lấy vải bằng vàng bao che cho thái tử; đặt thái tử nằm trên một phiến đá bằng vàng, rồi họ mang thái tử đến trước Thánh mẫu và nói: ‘Thật hết sức vui mừng hoàng hậu đã hạ sanh một đấng Siêu nhân’.

“Bên cạnh những ngôi tháp trên là một trụ đá lớn, trên đầu trụ đá có tượng hình con ngựa, do vua A Dục truyền dựng nên. Về sau, do sét đánh, trụ đá bị gãy ở giữa và rơi xuống đất. Gần đấy là một dòng sông nhỏ chảy về hướng đông nam. Dân địa phương gọi đó là ‘con sông dầu’ (River of Oil). Đây là dòng suối do các thiên thần tạo ra như hồ nước trong và lấp lánh cho hoàng hậu, sau khi hạ sanh thái tử, tắm ở đó. Ngày nay, nó biến thành con sông, với nước đang còn chất nhờn….”

Trích “Buddist Records Of The Western World”, translated from the Chinese of Hiuen Tsiang, by Samuel Beal (“Tây Du Ký” của Ngài Huyền Trang), Quyển VI, trang 24-25.

           IV. LÂM TỲ NI NGÀY NAY

           A. NHỮNG NHÀ KHẢO CỔ TIÊN PHONG GÓP PHẦN TÌM RA CÁC THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO

           Có thể nói phần lớn các Phật tích tại Ấn Độ và Nepal được khám phá đầu tiên nhờ ở các nhà khảo cổ Tây phương. Hội “Hoàng Gia Á Châu” (Royal Asiatic Society) do ông William Jones (1746-1794), một học giả người Anh, thành lập năm 1784 tại Calcutta, thủ đô của bang West Bengal, miền đông Ấn Độ; đã đặt nền tảng sơ khởi cho công cuộc khảo cứu về lịch sử, cổ học, văn hóa, và nghệ thuật của các nước Á Châu, nhất là Ấn Độ. Năm 1837 James Prinsep, nhà khảo cổ đầu tiên, đã nghiên cứu tìm ra được cách đọc chữ Brahmi, một cổ ngữ Ấn Độ rất khó, thường thấy khắc trên các trụ đá của vua A Dục (Asoka). Khám phá này đã góp phần to lớn cho công trình khảo cứu, tìm hiểu nội dung các bản văn sử liệu được ghi khắc trên những trụ đá, bia ký của A Dục tại các thánh tích Phật giáo.

Nhà khảo cổ Anh quốc có công nhất trong sự nghiệp khai quật, phát hiện phần lớn những di tích Phật giáo, phải kể là học giả Alexander Cunningham (1814-1893). Ồng ta đã nghiên cứu theo tài liệu lộ trình ghi chép trong các tập ký sự của hai nhà hành hương Trung Hoa, Pháp Hiển và Huyền Trang để xác định lại vị trí địa dư các Phật tích tại Ấn Độ.

B. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHÁM PHÁ LÂM TỲ NI ÐẦU TIÊN

Người đã khám phá ra di tích vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) đầu tiên là Dr. Alois Anton Furher, một học giả người Đức. Năm 1896, ông tìm ra hai trụ đá A Dục (Asokan Pillars), một tại vườn Lâm Tỳ Ni (nay là làng Rummindei, thuộc quận Rupandehi, vương quốc Nepal) và trụ kia tại làng Gotihawa ở Ca Tỳ La Vệ (hiện nằm trong vùng phía tây Terai của Nepal).

Công trình này của Dr. Furher, được các nhà khảo cổ Ấn Độ và Tây phương, xem như “một trong những khám phá quan trọng nhất trong thế kỷ 19” của nhân loại. Sau đó, chính phủ Ấn Độ đã đặc phái học giả P.C. Mukherjee qua Nepal nghiên cứu để kiểm chứng lại các khám phá trên của Dr. Furher. Sau một thời gian khảo sát tại chỗ, năm 1901, ông P.C. Mukherjee cho ấn hành một bản báo cáo về công tác khai quật, đào bới của ông, với đầy đủ giải thích chi tiết, họa đồ, và hình ảnh. Ngày 11 tháng 3 năm 1899, nhà khảo cổ P.C. Mukherjee đến Lâm Tỳ Ni. Ông ta thấy có hai mô đất lớn: một mô gồm chùa Mayadevi (Hoàng hậu Ma Gia), trụ đá vua A Dục, và nhiều kiến trúc khác, trong tình trạng đổ nát; một gò đất khác nằm về hướng tây nam chùa  Mayadevi, đó là làng Lâm Tỳ Ni cũ; mà xưa kia vua A Dục đến viếng thăm, đã truyền lệnh bố thí giúp đỡ cho dân chúng 1,000 đồng tiền vàng. Mục đích khảo sát của ông Mukherjee chỉ giới hạn xung quanh khu vực các di tích đổ nát gần trụ đá A Dục, và chùa Mayadevi.

Mô đất chùa, ông Mukherjee tìm thấy, là một mảnh đất hình chữ nhật dài 400 feet, rộng 300 feet, và cao từ 10 đến 20 feet. Trên đỉnh mô đất này, trông có một hình dáng di tích của một ngôi chùa đổ nát, và bên trong thấy tôn trí pho tượng Mayadevi (hoàng hậu Ma Gia), mà dân địa phương sùng kính như nữ thần. Điện thờ của ngôi chùa này về sau, đã được trùng tu lại. Nói tóm, công trình khảo cứu của ông Mukherjee tại vườn Lâm Tỳ Ni là đã khám phá ra ngôi chùa nguy nga, được xây bằng những viên gạch chạm khắc rất đẹp với những tượng đá mỹ thuật diển tả khi đức Phật đản sanh; và trụ đá A Dục tại nơi chính gốc của nó, có tường gạch bao quanh.

 C. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHÁM PHÁ LÂM TỲ NI SAU NÀY

Sau ông Mukherjee, tướng Kaiser Sumsher J.B. Rana, được chính phủ Ấn Độ ủy thác tiếp tục công việc khai quật, khám phá các di tích tại Lâm Tỳ Ni vào những năm 1932-1939, nhưng tiếc rằng ông không đạt được thành quả bao nhiêu. Ông chỉ phát hiện được cái nền cao chung quanh chùa Mayadevi, đào bới rộng thêm cái hồ nước Thích Ca (Sakyan Tank), thiết lập hàng rào sắt xung quanh trụ đá A Dục, và cho xây cất vài quán trọ dành cho du khách hành hương.

Sau một thời gian dài gián đoạn, bà Debala Mitra, nhân viên Nha Khảo Cổ Ấn Độ (Archaeological Survey of India) đến Lâm Tỳ Ni nghiên cứu vào năm 1962. Mục đích là khảo sát để kiểm chứng lại xem nơi trụ đá A Dục (ghi dấu chỗ đức Phật đản sanh trước kia) có đich thực ở nguyên vị trí chính gốc đầu tiên của nó hay không. Bà cũng chụp hình các vật dụng cổ đào thấy trong nhà bếp của chư Tăng sống tại nơi này vào những thế kỷ lâu xa trước đây.

 D. NHỮNG KHÁM PHÁ TẠI LÂM TỲ NI CỦA CHÍNH PHỦ NEPAL

Khác với những công cuộc khảo cứu thánh tích Lâm Tỳ Ni vào những thập niên trước đó, đều do chính phủ Ấn Độ khởi xướng; công trình khai quật có tánh cách quy mô, khoa học tại Lâm Tỳ Ni vào những năm 1970-1971, do Nha Khảo Cổ của chính phủ hoàng gia Nepal thực hiện. Mục tiêu của lần khảo cứu này, là nhằm xác định lại vị trí khu vực của “Ngôi làng Lâm Tỳ Ni” (Lumbini village) thời xưa, thấy được khắc ghi nói đến nơi trụ đá A Dục nằm về hướng tây của chùa Mayadevi. Thứ hai, thực hiện một bản đồ, trình bày rõ các di tích hiện hữu xung quanh chùa Mayadevi cho công cuộc bảo trì thánh địa Lâm Tỳ Ni trong tương lai. Thứ ba, lập đồ án khu vực những nơi khảo cổ chung quanh sông Telar (con sông Dầu), mà trong ký sự của ngài Huyền Trang có nhắc tới.

Công cuộc khảo cứu nơi gò đất thứ hai (do ông Mukherjee tìm thấy đã nói trên) chứng tỏ rằng vườn Lâm Tỳ Ni đã có người ở từ thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Nghiên cứu các tầng đất nơi chỗ có người cư trú, người ta thấy liên tiếp có đến 10 lớp, và nơi tầng thấp nhất với các đồ gốm. Cũng ở lớp đất thấp này, các nhà khảo cổ còn đào thấy một bức tường bằng đất bùn, một cái chuông bằng đất nung, và những cổ vật khác, được dân chúng đào vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch. Nơi lớp đất cao hơn, các nhân viên khảo cổ đào thấy hai cái giếng bằng gạch, một cái khung bằng đất nung, đúc hình đức Phật đản sanh. Ngoài ra, nhiều kiến trúc xây lên từ các thời đại xa xưa nhất đến thời Trung Cổ, để tưởng niệm đức Phật, đã tìm thấy rải rác trong một vùng đất rộng lớn xung quanh Lâm Tỳ Ni. Hiện nay, các hoạt động khảo cổ chính yếu tại Lâm Tỳ Ni của chính phủ Nepal là nhằm bảo trì các di tích đã khám phá được từ nhiều năm qua, cũng như trùng tu lại các ngôi tháp nhỏ và những kiến trúc khác trong khu vực này.

E. NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI NHẤT TẠI LÂM TỲ NI

Ngày 22-24 tháng 9 năm 1981,trong phiên họp đặc biệt của Nha Khảo Cổ tại Nepal, đã thông qua dự án thực hiện thêm công tác khai quật, khảo cứu tại Lâm Tỳ Ni. Kết quả của chương trình này, là một ngôi chùa mới (Vihara), xây cất lâu đời vào những thời kỳ khác nhau trước đây, đã được đào thấy tại phía đông nam chùa Mayadevi (Ma Gia hoàng hậu). Tại giữa ngôi chùa mới trên, người ta còn tìm thấy một ngọn tháp cổ có đường kính 6 feet. Ngôi chùa mới khám phá này đã được trùng tu và chăm sóc. Năm 1983, các nhân viên khảo cổ lại đào thấy một cái giếng cũ bằng gạch. Nơi đáy giêng, thấy có vài cái hũ bằng đất nung thuộc thời đại Kushan của Ấn Độ (48-220 T.L.), và một cái bình rất đẹp, được dân chúng dùng vào dịp lễ cúng Long Thần (Naga).

 V. CHÚNG TÔI ÐẾN VIẾNG LÂM TỲ NI

Sau thời gian ở Bangkok (Thái Lan) nghiên cứu Phật giáo gần một năm, khoảng tháng 8 năm 1966, chúng tôi rời Thái Lan qua Ấn Độ; và đến cuối tháng 10 năm 1969, chúng tôi đi chiêm bái Phật tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Lúc bấy giờ, chúng tôi đang theo học chương trình M.A. tại Học Viện Phật Giáo Nalanda, thuộc quận Patna, tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Độ. Đại Học Phật Giáo Nalanda ngày xưa là nơi ngài Huyền Trang, danh tăng Trung Hoa, trong thời gian đến Ấn Độ từ năm 630-643 T.L., đã ở nghiên cứu, tu học trong nhiều năm. Từ Nalanda, chúng tôi đi xe lửa về Patna, thủ đô của bang Bihar. Tại ga trung ương Patna, gần 1 giờ trưa, chúng tôi đáp tàu lửa tốc hành (Express), trên tuyến đường hỏa xa đông bắc Ấn Độ (North-Eastern Railway) để đi Varanasi (Ba La Nại), thuộc bang Uttar Pradesh, một thành phố lớn chỉ cách xa 6 dặm (miles) đường bộ vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi ngày xưa, đức Phật đã thuyết bài pháp đầu tiên Tứ Diệu Đế (Chuyển Pháp Luân). Chúng tôi đến thị trấn này vào lúc khoảng gần 7 giờ tối. Chúng tôi phải đi kiếm gì ăn, vì bụng thấy đói.

Chúng tôi vào tiệm ăn chay (Vegetarian Restaurant) ngay tại ga Varanasi. Ở Ấn Độ, bất cứ nhà ga lớn nào, cũng có mở tiệm ăn dành cho hành khách. Phần lớn các tiệm ăn này do Sở Hỏa Xa của chính phủ đảm trách. Bên này tiệm ăn chay, đầu kia là tiệm mặn (Non-Vegetarian). Có nơi trong cùng một tiệm, người ta phân hai ra, một bên mặn, một bên chay. Dù mặn hay chay, trước cửa tiệm đều có để bảng hiệu rõ ràng bằng hai thứ tiếng Hindi (Ấn Độ) và Anh văn. Quý vị nào biết tiếng Anh, thì rất dễ tìm thấy. Đồ ăn uống ở Ấn Độ rẻ mạt, nhất là thức ăn chay. Một bửa cơm chay ăn thực no, lúc ấy, chúng tôi nhớ chỉ phải trả đâu mất có 12 Rúp-pi (Rupees) tiền Ấn (bằng 1 đô la rưởi). Tôi nghĩ lúc này thực phẩm ở Ấn Độ có lên giá chút đỉnh, nhưng vẫn còn rẻ, nếu so với các nước Á Châu khác, nhất là tại Hoa Kỳ.

Xin được kể tiếp về chuyến đi. Sau khi dùng cơm xong, xem đồng hồ thấy gần 9 giờ tối. Chúng tôi vội vàng trả tiền đứng dậy rời tiệm ăn, đến sắp hàng chờ mua vé, để kịp đáp chuyến tàu lửa 10 giờ đêm từ Varanasi đi Gorakhpur, một thành phố lớn, nằm trong quận Gorakhpur, bang Uttar Pradesh miền đông bắc Ấn Độ. Đêm ấy, tàu tới trễ mất hơn tiếng đồng hồ, làm chúng tôi chờ sốt cả ruột, lại cảm thấy buồn ngủ. Tàu lửa ở Ấn Độ bị trễ là chuyện thường, đôi khi trễ đến 3,4 giờ liền. Nói vậy để quý vị hôm nào qua Ấn hành hương thì phải chịu khó kiên nhẫn mới được. Dù trễ cách nào, rồi trước sau gì tàu cũng đến… Tôi leo lên xe, tìm chỗ ngồi nơi toa hạng nhì, nhìn lại đồng hồ thấy hơn 11 giờ khuya. Vì không mua được chỗ nằm ở các chuyến tàu đêm, nên suốt đêm ấy chúng tôi phải ngồi mà ngủ. Tàu lửa đêm Ấn Độ, chỗ nằm phần nhiều phải mua trước một vài ngày mới có. Tàu tốc hành chạy suốt đêm, đến gần 8 giờ sáng hôm sau, chúng tôi đến ga Gorakhpur.

Bước ra khỏi tàu lửa, dù người hơi mệt vì mất ngủ; nhưng lòng chúng tôi vẫn cảm thấy rất vui, cái vui nhẹ nhàng thanh thoát của những người đệ tử như chúng tôi, theo gương Phật xuất gia từ nhỏ; giờ đây, đang trên đường trở về tìm lại dấu vết của ngàn xưa, hơn 2,500 năm trước, nơi vườn Lâm Tỳ Ni, đức Phật đã ra đời. Tại ga Gorakhpur, sau khi dùng điểm tâm, chúng tôi chờ đón chuyến tàu 11 giờ sáng để đi Nowgarh, một thành phố nhỏ vùng biên giới, trong quận Basti, thuộc bang Uttar Pradesh, miền đông bắc Ấn Độ. Muốn đi chiêm bái thánh tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), Nowgarh lúc bấy giờ là địa điểm thuận lợi nhất để quý vị có thể đến Lâm Tỳ Ni bằng đường bộ. Từ Gorakhpur đến Nowgarh mất khoảng 3 giờ tàu hỏa. Chúng tôi đến Nowgarh vào lúc hơn 2 giờ chiều, và phải nghỉ lại đêm để chờ sáng mai mới có xe buýt (bus) đi Lâm Tỳ Ni.

Nhờ ở đây có chùa Tích Lan của Hội Ma Ha Bồ Đề, nên chúng tôi vào xin ở lại. Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm để kịp đi chuyến bus đầu tiên, đến Lâm Tỳ Ni. Nowgarh cách vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 22 dặm (milles) đường bộ. Hơn 7 giờ sáng, xe buýt mới khởi hành. Trên chuyến xe này, chúng tôi gặp, cùng đi với chúng tôi hôm ấy, có ba nhà sư Ấn Độ, hai sư Tây Tạng, một sư Tích Lan, một sư Miến Điện, vài du khách Tây Phương, và một số Phật tử người Ấn. Chiếc xe vượt băng qua những ngôi làng, bỏ lại đàng sau các lớp bụi đường mờ đục hòa lẫn trong ánh nắng ban mai. Trước mắt chúng tôi hiện ra những cánh đồng, xanh màu rau cải, với những người nông dân Ấn Độ hiền lành chất phác của một quê hương xứ Phật thật thanh bình. Thỉnh thoảng chúng tôi nhìn thấy một vài ngọn tháp và ngôi đền Ấn giáo được xây cất rải rác đó đây dọc hai bên đường, dẫn đến vườn Lâm Tỳ Ni.

Sau gần 2 tiếng đồng hồ, chiếc xe buýt mang chúng tôi đến gần biên giới Nepal. Xe ngừng nơi trạm kiểm soát, các hành khách ngoại quốc, trong đó có chúng tôi, xuống xe. Chúng tôi mang sổ thông hành (của Việt Nam Cộng Hòa) đến trình nhân viên sở Di Trú, để xin dấu chiếu khán (visa) nhập cảnh vương quốc Nepal, với lệ phí 10 Rupees Ấn Độ (hơn 1 mỹ kim). Xong, chúng tôi trở lên xe buýt tiếp tục cuộc hành trình. Khoảng 9 giờ 30 sáng, chúng tôi đến vườn Lâm Tỳ Ni. Mặt trời đã lên cao, nhưng ánh nắng không gắt lắm, vì tiết trời đang còn mùa thu. Vì phải tranh thủ thì giờ để kịp trở về Nowgarh chuyến xe buýt lúc 2 giờ chiều, nên ngay khi vừa đến, chúng tôi theo đoàn hành hương, đi vào khu vườn Lâm Tỳ Ni lịch sử, chiêm bái các di tích tại nơi đây. Không ai bảo ai, chúng tôi và mọi khách hành hương, đều mang theo sẵn hương đèn để chuẩn bị hành lễ.

Lâm Tỳ Ni, thời gian năm 1969, chúng tôi đến viếng, cũng giống như Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), nhìn chung cảnh vật thật tiêu điều. Ngày xưa, thời Phật còn tại thế, hoa viên Lâm Tỳ Ni, làm nơi du ngoạn, giải trí chung cho cả hai bộ tộc Thích Ca (Sakyas) và Câu Ly (Koliyas), cảnh trí huy hoàng, nhộn nhịp, hoa lá xanh tươi đẹp đẽ bao nhiêu, thì giờ đây khu vườn lại hoang sơ, vắng vẻ, tàn tạ bấy nhiêu. Mặc dù nhiều năm trước đó, chính phủ Nepal cũng đã cố gắng thực hiện vài công tác trùng tu, phát triển thánh tích này, nhưng vẫn không thể đạt được thành quả nhiều như hiện giờ, qua chương trình Liên Hiệp Quốc phát triển Lâm Tỳ Ni đang xúc tiến, với sự đóng góp chung của nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới.

Sau khi thắp hương đèn khấn nguyện hành lễ xong, chúng tôi theo đoàn người đi chiêm bái, lần lượt đến viếng những cảnh chính sau đây trong vườn Lâm Tỳ Ni:

A. TRỤ ÐÁ VUA A DỤC (ASOKAN PILLAR)

Di tích quan trọng nhất tại đây là trụ đá do vua A Dục truyền dựng lên khi ngài đến viếng thánh địa này vào năm 249 trước Tây lịch, để đánh dấu nơi đức Phật đản sanh hơn 2,500 năm trước. Trụ đá này lần đầu tiên do nhà khảo cổ người Đức, Dr. Alois A. Fuhrer khám phá thấy vào năm 1896. Trụ đá, theo nhà khảo cổ học Ấn Độ, bà Debala Mitra, (đo từ mặt đất), cao 24 feet 3 inches. Trên trụ đá có khắc 5 hàng chữ Brahmi (cổ ngữ Ấn độ) dưới đây:

Devanampiyena Piyadasina Lajina-Visativasabhisitena,

Atana-agacha mahiyite. Hida Budhe-jati Sakyamuniti

Silavigadabhicha kalapita Silathabhe-cha usapapite

Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike Kate

Athabhagiye Cha.

Phỏng dịch: “Hoàng đế Piyadasina (A Dục), được các Thiên thần kính mến, sau khi lên ngôi 20 năm, Ngài đích thân đến đảnh lễ tại nơi này. Vì đây là nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh, Ngài truyền lịnh cho tạo nên một pho tượng lớn và dựng một trụ đá để ghi dấu đây là nơi đức Thế Tôn xuất thế. Nhà vua cũng miễn thuế nghi lễ cho dân làng Lâm Tỳ Ni và họ chỉ phải trả 1/8 lợi tức mà thôi”.

Nhìn kỹ, chúng tôi thấy trụ đá có một vết nứt thẳng dài từ trên đến khoảng giữa, và tượng “hình con ngựa” trên đầu cột trụ (mà trong ký sự của Ngài Huyền Trang có nói đến), không còn nữa. Hiện nay, các nhà khảo cổ chưa tìm thấy di tích tượng của “hình con ngựa” này.

B. NGÔI ÐỀN THỜ RUMMINDEI

Đây là ngôi đền với mái bằng phẳng, được xây gần trụ đá A Dục về hướng đông, trên một bức nền cao độ 3 thước tây. Bên trong ngôi đền thấy tôn trí một phiến đá lớn, chạm khắc hình tượng nữ thần, gọi là Rupadevi hay Rummindei. Ngoài ra, còn có những hình tượng bằng đá, diễn tả cảnh lúc hoàng hậu Ma Gia đản sanh thái tử. Hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) cao gần bằng người thật, đứng dưới một thân cây Sa La (Sala), với tay phải của hoàng hậu đưa lên vịn nhành cây, và tay trái của hoàng hậu đặt nơi hông. Một phụ nữ đứng bên phải nâng đỡ hoàng hậu, theo giáo sư B.C.Bhattacharya, có thể đó là bà di mẫu Mahaprajapati (Ma Ha Ba Xà Ba Đề). Cạnh đó có một hình tượng mà theo học giả V.A.Smith, cho là vua trời Đế Thích (Sakra), người cúi xuống nâng đỡ thái tử khi Ngài đản sanh từ phía hữu của hoàng hậu. Đứng dưới là tượng thái tử với vòng hào quang trên đầu Ngài.

C. HỒ NƯỚC PUSHKARINI

Về phía nam ngôi đền trên có một hồ nước hình vuông bằng gạch, gọi là hồ Pushkharini. Tục truyền xưa kia khi đức Phật đản sanh, từ trên trời có hai suối nước chảy xuống tắm cho Ngài, và nước này về sau đã tạo nên hồ Pushkarini. Ngày nay, dân chúng địa phương tin rằng hễ ai có bệnh tật gì thì đến đây tắm, bệnh sẽ chóng lành.

D. NỀN CỦA NGÔI CHÙA CŨ

Gần con đường dẫn tới  ngôi đền và trụ đá vua A Dục, chúng tôi thấy vết tích lâu đời nền móng của một ngôi chùa cổ. Cái nền có hình chữ nhật, cách kiến trúc trông giống như một cái phòng lớn, mà khi cần có thể chia thành nhiều phòng nhỏ. Người ta đào thấy ở đây vài pho tượng nhỏ của đức Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí v.v… bằng đất nung, đá đen và bằng đồng; cùng với một vài đồng tiền không được rõ lắm. Các pho tượng nói trên, một phần nửa đã bị hư hoại. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy tại đây nhiều mảnh tượng chạm khắc không rõ lắm. Có một mẩu chỉ nửa phần trông rõ, mà các nhà khảo cổ nghĩ rằng, không biết có phải đó là phần dưới của cái tượng “hình con ngựa” trên đầu trụ đá vua A Dục hay không

VI. NHỮNG CHÙA THÁP VÀ TRỤ ĐÁ MỚI XÂY CẤT TẠI LÂM TỲ  NI

Sau khi đi chiêm bái hết các di tích trên, chúng tôi đến thăm hai ngôi tháp và trụ đá mới dưới đây.

A. HAI NGÔI THÁP MỚI

 Chính phủ Nepal, trong chương trình sửa sang thánh tích Lâm Tỳ Ni, khoảng vài mươi năm trước, đã dùng các vật liệu đào bới được tại đây, để xây cất hai ngôi tháp mới cách không xa trụ đá vua A Dục. Về phương diện mỹ thuật, hai ngôi tháp này không có gì đặc biệt cho lắm.

B. TRỤ ÐÁ VUA MAHENDRA

Để kỷ niệm đức Phật đản sanh năm 2,500, vua Mahendra của Nepal (nay đã qua đời), vào năm 1956, đã cho xây cất tại Lâm Tỳ Ni, một trụ đá mới bằng cẩm thạch rất đẹp, và trên đó có khắc những hàng chữ Nepali (tiếng Nepal), đại ý như sau:

“Đức vua của Vương quốc Nepal, đã truyền cho xây cất quán trọ, đường xá, và sửa sang lại các chùa tháp, hồ nước xưa tại vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đản          sanh – đấng siêu nhân vĩ đại nhất trong lịch sử của Nepal. Đức vua đã truyền thực hiện các công trình khai quật, nghiên cứu một cách khoa học, nhằm phát triển và duy trì thánh địa này. Nhân ngày trăng tròn tháng Vaisakha, kỷ niệm đức Phật đản sanh năm 2,500, trụ đá Mahendra này được xây dựng. Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh an lành”.

Vừa viếng xong nơi đây, thì trời cũng đã quá 12 giờ trưa. Chúng tôi đi tìm quán ăn chay để dùng bữa. Sau đó, chúng tôi vội vã đến thăm tịnh xá, nơi các chư Tăng Nepal đang ở. Vào lúc ấy, chúng tôi nhớ có gặp được hai Đại đức Aniruddha và Mahanam. Hai Đại Đức đã đón tiếp chúng tôi rất niềm nở. Sau hơn nửa giờ thăm hỏi, chuyện trò, chúng tôi có thỉnh mua vài cuốn sách Anh văn viết về thánh tích Ca Tỳ La Vệ và Lâm Tỳ Ni, mà hiện giờ đây, chúng là một trong những tài liệu chúng tôi đã dùng đến để viết bài này. Thỉnh sách xong, chúng tôi xin chụp chung với hai Đại Đức vài tấm hình để lưu niệm. Nhìn lại đồng hồ thấy gần 2 giờ chiều, chúng tôi vội vàng ra xe để kịp chuyến bus trở về Nowgarh. Khoảng gần 5 giờ chiều chúng tôi về tới Nowgarh. Vì hơi mệt, chúng tôi buộc lòng phải ở lại ngôi chùa Tích Lan một đêm nữa tại thành phố vùng biên giới khá yên tĩnh này, hầu dưỡng sức để sáng hôm sau, chúng tôi lại đáp tàu lửa tiếp tục cuộc hành trình một mình đi chiêm bái các Phật tích khác tại Ấn Độ.

    VII. CÔNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LÂM TỲ NI CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO NEPAL

Trong công trình phát triển, duy trì thánh tích Lâm Tỳ Ni, vào những thập niên gần đây, ngoài chính phủ Nepal, Giáo hội Phật giáo tại Nepal cũng đã góp phần không nhỏ. Chư Tăng có công nhiều nhất là cố Thượng Tọa Bhadanta Dhammaloka và các đại đức Aniruddha và Mahanam. Nhờ cố gắng của Giáo Hội, từ nhiều năm trước, một văn phòng chỉ dẫn cho du khách hành hương tại Lâm Tỳ Ni đầu tiên đã được thành lập. Giáo hội cũng đã cho ấn hành các tại liệu sách báo bằng Anh văn và tiếng địa phương, để hướng dẫn giúp đỡ du khách hiểu rõ về lịch sử thánh tích này. Năm 1952, Giáo hội đã đứng ra tổ chức Đại Lễ Phật Đản tại Lâm Tỳ Ni với hàng trăm ngàn Phật tử xa gần khắp nơi trong và ngoài nước Nepal về tham dự.

Tiếp tay với Giáo Hội, chính phủ Nepal năm 1956, nhân kỷ niệm Phật Đản năm 2,500, đã cho xây cất một “Văn Phòng Hướng Dẫn Du Khách” và một quán trọ (Rest House) mới, nhằm giúp phương tiện nghỉ ngơi cho khách thập phương đến chiêm bái Lâm Tỳ Ni. Nhiều quốc gia Phật giáo khác như Tích Lan, Miến Điện, Cam Bốt và Thái Lan v.v… cũng đã góp phần với chính phủ Nepal trong việc phát triển thánh tích này. Tưởng nên biết rằng trước đó, một quán trọ đã được xây cất tại Lâm Tỳ Ni do sự phát tâm đóng góp của Hội Ma Ha Bồ Đề (Maha Bodhi Society) ở Ấn Độ.

 VIII. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LÂM TỲ NI CỦA  LIÊN HIỆP QUỐC

Chúng tôi xin tóm lược sau đây lịch sử chương trình phát triển Lâm Tỳ Ni của Liên Hiệp Quốc.

A. KHỞI XƯỚNG ÐẦU TIÊN

Có thể nói ý kiến phát triển quy mô vườn Lâm Tỳ Ni bắt đầu có từ Đại Hội Phật Giáo Thế Giới (World Fellowship of Buddhists) lần thứ 4, tổ chức tại Kathmandu, thủ đô vương quốc Nepal, vào những ngày 15-21 tháng 11 năm 1956. Tại đại hội này, cố hoàng đế Mahendra của Nepal, đã khởi xướng kêu gọi việc phát triển Lâm Tỳ Ni, và đức vua đã phát tâm hỷ cúng hàng trăm ngàn Rúp-pi (Rupees) để xây cất tại đây một ngôi chùa mới, một lữ quán và một con đường.

B. ÐỀ NGHỊ PHÁT TRIỂN

Sau đó, nhân chuyến đi chiêm bái Lâm Tỳ Ni, cố Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant (Miến Điện) đã thảo luận tại hoàng cung với cố Hoàng đế Nepal Mahendra vào ngày 13-04-1967 về dự án phát triển Lâm Tỳ Ni thành một trung tâm hành hương Hòa bình và Du lịch Quốc tế. Đề án này liền được vua Mahendra bấy giờ đồng ý chấp thuận.

 C. LỊCH TRÌNH PHÁT TRIỄN

Tháng 10 năm 1967, hai vị Phó Thủ Tướng và Bộ Trưởng Ngoại Giao Nepal, ông Kirti N.Bista gặp ông U.Thant, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) để thảo luận thêm về dự án. Sau đó, vua Nepal chính thức yêu cầu LHQ giúp đỡ soạn thảo kế hoạch phát triển Lâm Tỳ Ni. Vài tháng sau, một phái đoàn ba nhân viên của LHQ, dưới sự hướng dẩn của cố giáo sư S.Kobe đã đến thăm các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ; đặc biệt là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) và Lâm Tỳ Ni (Lumbini) ở Nepal, trong thời gian từ 10-12-1967 đến   9-01-1968. Phái đoàn, sau khi nghiên cứu tường tận, đã cố vấn chỉ dẩn cho chính phủ Nepal, trong việc phát triển thánh tích này, với các vấn đề cơ bản: phương tiện giao thông, nước uống, điện lực và tiện nghi cho du khách hành hương.

Năm 1970, một Ủy Ban Liên Hiệp Quốc phát triển Lâm Tỳ Ni được thành lập tại Nữu Ước (New York). Vị đại sứ thường trực vương quốc Nepal tại Liên Hiệp Quốc làm chủ tịch Ủy Ban này, với 15 quốc gia thành viên: A Phú Hãn, Bangladesh, Bhutan, Miến Điện, Cam Bốt, Ấn Độ, Nam Dương (Indonesia), Lào, Mã Lai, Nepal, Hồi quốc (Pakistan), Đại Hàn, Tân Gia Ba, Tích Lan và Thái Lan.  Cùng lúc, Ủy ban cũng đề cử giáo sư người Nhật Kenzo Tange, một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới, thiết kế đồ án. Sau đó (trong năm 1970), ông U Thant, cố Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, nhân danh Ủy Ban Phát triển Lâm Tỳ Ni, đã phổ biến một văn thư kêu gọi sự giúp đỡ và hợp tác của các quốc gia trên toàn thế giới, trong công tác lịch sử vĩ đại này. Văn thư có đoạn ông viết:

“…Từ đầu năm 1968, nhiều chương trình phát triển Lâm Tỳ Ni đã được thực hiện bởi cả hai chính phủ Nepal và tổ chức Liên Hiệp Quốc, và dự án đó nay đã tiến đến giai đoạn, cần sự phát tâm đóng góp tài lực (của mọi quốc gia), để thánh địa này sớm trở thành một trung tâm hành hương, với đầy đủ tiện nghi cho các Phật tử đến chiêm bái và du khách. Trong công tác này, tôi muốn bày tỏ sự tán thán của riêng cá nhân tôi đối với chính phủ Nepal trong việc họ đã thực hiện được những bước tiến đầu tiên. Tôi cũng chân thành hy vọng rằng, các chính phủ quan tâm, những cá nhân và đoàn thể sẽ phát tâm đóng góp bằng tịnh tài cũng như hiện vật để ủng hộ cho sự thực hiện một công trình mà tôi nghĩ là hết sức thiêng liêng và cao quý…”.

Cũng trong tinh thần kêu gọi sự giúp đỡ, hợp tác thế giới nhằm phát triển vườn Lâm Tỳ Ni, đương kim Hoàng Đế Nepal Birendra, trong thông điệp Mừng Lễ Phật Đản năm 2,527 (1983), đã bày tỏ với dân chúng:

“Thánh địa, nơi đản sanh của đấng Giác Ngộ, được xem như vùng đất thiêng của Tình Thương và Hòa Bình siêu việt. Thực vậy, đó là sự diễn rộng cái ý tưởng chấp nhập đề nghị xem Nepal như một khu vực Hòa Bình. Những năm qua, theo đồ án thiết kế để phát triển Lâm Tỳ Ni, bằng tài lực của riêng mình, chúng ta đã thực hiện được vài công trình cơ bản đáng kể. Chúng ta đã cố gắng phát triển Lâm Tỳ Ni trở thành Thánh địa cho các nhà hành hương, du khách, sử gia và khảo cổ khắp nơi trên thế giới. Chúng ta nghĩ đã đến lúc chúng ta cần sự hỗ trợ của quốc tế để phát triển thêm qua việc sử dụng đúng mức các nguồn tài trợ ngoại nhân này. Bằng cách đó chúng ta có thể bày tỏ lòng tôn kính vô biên đối với đức Phật, vị Vua của Hòa Bình…”.

Trong bài diễn văn đọc trước Đại Hội của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc phát triển Lâm Tỳ Ni, tổ chức tại Lâm Tỳ Ni vào tháng 3 năm 1984, ông Javier Perez De Cuellar, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cũng đã nhắc lại cái tâm nguyện nhiệt thành phát triển Lâm Tỳ Ni của cố Tổng Thư Ký LHQ U.Thant, và sau này đã được tiếp nối bởi ông Kurt Waldheim, có đoạn viết: “Thông điệp từ bi và lợi tha của đức Phật nhằm phục vụ cho nhân loại ngày nay thật cần thiết hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử. Hòa bình, sự thông cảm, với cái nhìn xa (hiểu biết) vượt khỏi biên giới quốc gia là nhu cầu cấp thiết trong thời đại nguyên tử, và bất an của chúng ta hôm nay…”.

Năm 1976, kế hoạch phát triển Lâm Tỳ Ni, theo bản họa đồ chính (Master Plan), tổn phí dự trù lên tới khoảng 19 triệu mỹ kim. Đồ án thiết kế này được hoàn thành trong phiên họp cuối cùng tổ chức tại Đông Kinh (Tokyo), Nhật Bản, vào tháng 3 năm 1978; đã đệ trình lên cho Liên Hiệp Quốc, và được chuẩn y bởi chính phủ Nepal vào năm 1979. Khu vực phát triển tại Lâm Tỳ Ni theo đồ án thiết kế, rộng chiếm đến 3 dặm vuông, phân làm 3 vùng, mỗi vùng rộng một dặm vuông, chia ra như sau:

            Vùng I: Công Viên Thiên Liêng (Sacred Garden)

            Vùng II: Khu Chùa tháp (Monastic Zone)

            Vùng III: Ngôi làng Lâm Tỳ Ni mới (New Lumbini Village)

Công Viên Thiêng Liêng : Nhằm tạo nên một khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh, và an lành phù hợp với tinh thần đản sanh của đức Phật.

Khu Chùa Tháp : Trong khu này, một bảo tàng viện sẽ được thiết lập để bảo trì tất cả những cổ vật đào thấy tại Lâm Tỳ Ni; cùng triển lãm cho du khách hành hương, mọi tài liệu khác diễn tả về đời sống đức Phật. Ngoài ra, nhiều chùa tháp cũng dự trù cho xây cất bởi các tông phái và quốc gia Phật giáo khác biệt, nhằm tạo ra ở đây một cảnh trí thiền vị, yên tĩnh, cùng hòa hợp chung giữa các màu sắc giáo hệ Phật giáo.

Ngôi làng mới Lâm Tỳ Ni : Ngôi làng này nhằm cung cấp mọi tiện nghi sinh hoạt cho cả du khách và dân chúng địa phương, với các cơ sở như trung tâm Văn hóa (Cultual Centre), trung tâm Lâm Tỳ Ni (Lumbini Centre) v.v…

Cho đến nay (theo tài liệu báo cáo của chính phủ Hoàng gia và Ủy ban Phát triển Lâm Tỳ Ni tại Nepal, ấn hành năm 1983-1984), một phần lớn chương trình phát họa trong đồ án thiết kế trên đã được thực hiện với tổn phí hàng triệu mỹ kim; và hiện đang tiếp tục phát triển.  Chương trình thực sự khởi đầu công tác từ năm 1983, và Ủy ban Liên Hiệp Quốc Phát Triển Lâm Tỳ Ni dự trù sẽ hoàn tất toàn bộ vào năm 1990. Tổn phí dự trù cho việc thực hiện đúng theo đồ án trong năm 1983 là 867 triệu Rupees (tiền Nepal); đây chưa kể ngân khoản dự trù 420 triệu Rupees dành cho chương trình thiết lập 41 ngôi chùa. Những chùa này sẽ được xây cất theo họa đồ, kiểu mẩu riêng của từng quốc gia.

Dưới đây là ngân khoản hứa đóng góp của các giáo phái và quốc gia Phật giáo:

a) Giáo phái Reiyukai của Phật giáo Nhật Bản hứa cúng 1,740,000 mỹ kim cho kế hoạch xây cất một Trung tâm Văn Hóa và 125,000 mỹ kim cho việc trang bị dụng cụ máy móc tại trung tâm.

b) Chính phủ Tích Lan nhận sẽ giúp 10 triệu Rupees (bằng nửa triệu mỹ kim) để thiết lập các tiện nghi ăn ở cho du khách hành hương.

c) Chính phủ Ấn Độ hứa sẽ đóng góp 2,1 triệu mỹ kim để xây cất một Viện Bảo Tàng.

d) Ủy Ban Phát Triển Lâm Tỳ Ni tại Hoa Kỳ hứa giúp 5 triệu mỹ kim cho công tác xây cất Hội trường và cho ngân quỹ tổng quát.

Đến nay, nhiều Ủy ban Phát triển Lâm Tỳ Ni đã được thành lập tại các quốc gia: Bhutan, Đại Hàn, Nhật Bản, Tích Lan, Thái Lan, Ấn Độ và Hoa Kỳ v..v.. nhằm gây quỹ để tài trợ cho công trình vĩ đại này.

Viết đến đây, lòng chúng tôi cảm thấy vô cùng xúc động, vì sung sướng thấy rằng hình ảnh đức Bổn Sư Thích Ca Từ Phụ, tuy đã khuất bóng lâu rồi; nhưng giáo pháp cao siêu vi diệu của Ngài vẫn còn là nguồn an ủi vô biên, ngọn đuốc soi đường muôn đời cho nhân loại hôm nay, cuối thế kỷ 20, thời đại nguyên tử; với mọi nghiệp chướng tham, sân, si cố hữu của con người, vẫn còn gây chiến tranh đau khổ, chia rẽ, hận thù, chém giết lẫn nhau khắp nơi. Chính vì nhận thức được sự quá cần thiết của giáo lý đức Phật đối với thế giới bất an ngày nay, mà đề án Phát Triển Lâm Tỳ Ni, nơi nguồn gốc phát sinh của Hòa Bình và An Lạc hơn 2,500 năm trước, đã được các quốc gia Phật giáo, và Phật giáo đồ trên toàn thế giới, từ nhiều năm qua cũng như bây giờ, hết lòng tán dương và ủng hộ.

Nhân mùa Phật Đản P.L. 2530 (1987), chúng tôi thành tâm chấp tay cầu nguyện hồng ân Tam Bảo thùy từ gia hộ cho kế hoạch phát triển vườn Lâm Tỳ Ni của Liên Hiệp Quốc sớm được viên mãn thành tựu; để cho nguyện ước của cố Tổng Thư Ký LHQ U. Thant, cũng như hàng trăm triệu Phật tử khắp năm châu, sớm thấy trong tương lai gần, Lâm Tỳ Ni thực sự trở thành một trung tâm du lịch, hành hương của Tình Thương và Hòa Bình thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      A Guide To Kapilavastu And Lumbini, by V. Srivastara, Varanasi, India.

2.       Lumbini, by J. Vijayatunga, Delhi, India.

3.       Lumbini Development Project, by The Lumbini Development Committee, Kathmandu, Nepal

4.       Archaeological Activities In Lumbini 1978-1983, by Krishna Rijal, Kathmandu, Nepal.

5.      Lumbini Development Committee: A Profile 1983-1984, Kathmandu, Nepal.

6.      Buddhist Remains In India, by Dr. A. C. Sen, New Delhi, India.

7.       Asoka, by Radhakumud Mookerjee, Delhi, India.

8.       Temples Of Nepal, Department of Tourism, Kathmandu, Nepal.

9.      Buddhist India, by T. W. Rhys Davids, Delhi, India.

10.   The Buddha And His Teachings, by Narada Maha Thera, Colombo, Sri Lanka.

11.  The Life Of Buddha, by Edward J. Thomas, London, England.

12.    Men And Thought In Ancient India, by R. K. Mookerji, Delhi.

13.  Buddhist Art In India, by Jas. Burgess, New Delhi, India.

14.  Early History Of Vaisali, by Y. Mishra, Delhi.

15.   An Advanced History Of India, by R. C. Marjumdar, H. C. Raychaudhuri and Kalikinkar Datta, New York.

16.   Evolution Of Indian Culture, by V. C. Pandey and K. Singh, Lucknow, India.

      17.   Ancient Indian Historical Tradition, by F. E. Pargiter, Patna, India.

18.   A Record Of Buddhistic Kingdom; Translated from the Chinese of Fa-Hien by James Legge, San Francisco.

19.   Buddhist Records Of The Western World (Si Yu Ki), Translated from the Chinese of Hiuen Tsiang by Samuel Beal, Delhi.

20.   General Knowledge Compendium, by C. S. Bedi,Delhi.

     21. A Glossary Of Anglo-Indian Colloquial Words And Phrases, And Of Kindred Terms, by Col. Henry Yule and A. C. Burnell,Delhi.

22.   A Dictionary Of Chinese Buddhist Terms, by William Edward Woothill and Lewis Hodous, Reprinted inTaipei,Taiwan.

23.  Concise Pali-English Dictionary, by A. P. Buddhadatta Mahathera,Colombo,Sri Lanka.

24.  Student’s Sanskrit To English Dictionary, by V. S. Apte,Delhi.

25.  Buddhism, Its Essence And Development, by Edward Conze,London.

26.  India, Tourist Road Map Of North-Eastern Region, Department of Tourism,New Delhi,India.

27.   The Life Of Buddha As Legend And History, by Edward J. Thomas,London,England.

28.   Buddha And The Gospel Of Buddhism, byAnanda Coomaraswamy,New York.

29.   The Buddha And Five After Centuries, by Dr. Sukumar Dutt,Calcutta,India.

30.   The Beginning Of Buddhism, by Kogen Mizuno (Translated from Japanese into English by Richard L. Gage),Tokyo,Japan

31.   Sources Of Indian Tradition, by Editor W. Theodore De Bary,Delhi,India.


Bài khác nên xem

“TỨ TẤT ĐÀN” – Giáo thọ sư HT Thích Thái Hòa

Huệ Quang GĐPTVN

Di Lặc Hạ Sanh

phuocthanh

Thánh Đản Phổ Hiền(Bodhisattva Visvabhadhra)

phuocthanh