TIỂU SỬ
CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
(1909 – 1984)
Hòa Thượng húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Trí Thủ. Ngài sinh vào giờ Hợi ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 1 tháng 11 năm 1909. Xuất thân từ một dòng tộc nối đời sùng mộ Phật pháp. Hòa Thượng thuộc thế hệ thứ tám của họ Nguyễn, họ khai canh và khai khẩn làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dòng tộc này từ thế hệ thứ ba có Thiền Sư Đạo Minh – Phổ Tịnh trụ trì kế tổ Tổ đình Báo Quốc – Huế, kiến lập Sắc Tứ Linh Quang Tự tại thôn nhà (làng Trung Kiên, Triệu Phong, Quảng Trị) vào năm Gia Long nguyên niên (1802). Đời thứ tư có Hòa Thượng Nhất Định – Tánh Thiên khai sơn Tổ đình Từ Hiếu. Thế hệ thứ sáu Hòa Thượng Trừng Nhã, tự Chí Thanh khai sơn chùa Giác Lâm. Thế hệ thứ bảy Hòa Thượng Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ khai sơn chùa Hải Đức. Đồng hàng thứ tám có Hòa Thượng Tâm Lượng, hiệu Diệu Hoằng trùng hưng Diệu Đế quốc tự.
Thân phụ Ngài húy Văn Minh, pháp danh Trừng Khiết, tự Diệu Quang, hiệu Hưng Nghĩa. Thừa tiếp gia phong, theo hạnh tu bán thế tục gia, lập am thất Phổ Tế tại vùng đồi phía Nam kinh thành Huế, quy ngưỡng Phật pháp. Thân mẫu tục danh Lê Thị Nậy, tự Chiểu, người làng Cu Hoan, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài là con trai trưởng, gia đình có hai em, một trai là Nguyễn Văn Khâm và một gái là Nguyễn Thị Vân.
Từ tấm bé, Ngài đã theo đòi nghiên bút với Hán tự, chữ viết văn học thời này. Lên chín là khá làu thông việc đọc và viết các bài kinh nhật tụng. Ảnh hưởng đạo phong của các bậc tôn túc thân tộc, vốn ươm sẵn cốt tủy bồ-đề và túc duyên với Phật pháp, mười bốn tuổi Ngài theo bác ruột học kinh ở chùa Hải Đức, Huế. Dòng tộc vốn kính ngưỡng cao danh và đạo vị của Thiền Sư Viên Thành nên năm mười bảy tuổi Ngài được cho đầu sư thọ học với Thiền Sư tại chùa Tra Am (Trà Am), Huế. Ngài được Bổn Sư Viên Thành nhận làm đệ tử thứ tư, ban pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám và giáo huấn nghiêm ngặt. Ba đại sư huynh ngộ pháp nổi danh của Ngài là Trí Uyên, Trí Hiển và Trí Giải.
Đủ hai mươi tuổi, Bổn Sư cho vào giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng thọ Cụ Túc giới, Ngài trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 Giới Tử tại giới đàn này. Do đó, Bổn Sư Viên Thành đã cho pháp hiệu là Thích Trí Thủ với ý khen tặng chữ Thủ là đứng đầu.
Sau hai năm cư tang Bổn Sư tại chùa Tra Am, Ngài cùng các pháp lữ vào chùa Thập Tháp, Bình Định tham học với Hòa Thượng Phước Huệ vào năm 23 tuổi.
Mãn học, ngài ngồi ghế Giáo Thọ, dạy trường Phật Học Phổ Thiên ở Đà Nẵng. Vì chưa thỏa lòng cầu pháp, Ngài trở ra Huế, cùng các vị đồng học ở Thập Tháp ngày trước, tổ chức Trường Phật Học tại chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên chùa Thiền Tôn làm Giám Đốc, Hòa Thượng Phước Huệ chùa Thập Tháp làm Đốc Giáo dạy nội điển, đồng thời mời các Cư Sĩ như bác sĩ Lê Đình Thám dạy luận học, các cụ Nguyễn Khoa Toàn, Cao Xuân Huy… dạy các môn về văn hóa theo trình độ đại học. Ở trường này, Ngài đã chính thức học chương trình đại học Phật Giáo cũng như văn hóa. Trong thời gian này, ngài đồng thời làm Giảng Sư cho Hội Phật Học Huế và dạy lớp trung đẳng Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên. Lúc này, Ngài được hai mươi bảy tuổi. Khi Hội Phật Học mở trường tiểu học Phật Giáo tại chùa Báo Quốc, Ngài đã kiêm dạy chúng Tăng Sinh ở đây.
Sau khi tốt nghiệp Trường Phật Học Tây Thiên, năm 29 tuổi (1938), Ngài về trụ trì chùa tổ Ba La Mật, nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho Hội và các trường Phật học. Năm 1939, Ni Trường thành lập tại chùa Từ Đàm, Sơn Môn và Hội Phật Học giao Ngài đặc trách việc đào tạo và điều hành Ni Trường này. Đây là cơ sở Ni Bộ đầu tiên được hình thành. Năm 1940, Ngài trùng tu chùa tổ Ba La Mật. Năm 1941 mở Trường Sơn Môn Phật Học tại chùa Linh Quang Huế, chủ trương xây dựng kinh tế tự túc cho học chúng làm phương tiện tu trì trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng thời bấy giờ. Ngài cũng chủ trương cho Học Tăng học văn hóa. Chính Ngài đích thân dẫn Tăng Sinh đi thi tiểu học. Việc Tăng Sinh học văn hóa và thi lấy bằng cấp ngoài đời đã gây chấn động không ít trong số người chủ trương đào tạo Tăng Sinh theo nề nếp cũ.
Cách mạng tháng 8 dấy khởi, với cương vị Trị Sự Sơn Môn Thừa Thiên, Ngài đã cùng nhiều vị lập Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, chủ trương tờ nguyệt san Giải Thoát làm cơ quan tuyên truyền. Ngài đắc cử Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân Thừa Thiên và được chính quyền mời đến Trung Bộ Phủ giao quyền sắp đặt lại chùa chiền, hủy bỏ chế độ chùa vua trước đó.
Năm 1948, Ngài mở giới đàn tại chùa Báo Quốc, thân làm chủ đàn. Tại giới đàn này, Ngài đã phục hồi ý nghĩa của Thất Chứng mà các giới trường xưa nay ít coi trọng. Trong ý nghĩa đó, Ngài đã cung thỉnh các vị tôn túc giới đức cao dày làm Tôn Chứng để chứng minh cho sự truyền giới. Ngài cũng phân chia riêng Tăng, Ni hai bộ, Tăng độ cho Tăng, Ni độ cho Ni.
Năm 1951, với chức vụ Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học Trung Phần, nằm trong hệ thống Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam có sáu tập đoàn Phật Giáo Bắc, Trung, Nam, đứng đầu là Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội Chủ, Ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trường Tiểu Học Tư Thục Bồ Đề tại thành nội Huế. Đây là điểm mở đầu mạng lưới giáo dục Phật Giáo, đóng góp vào sự nghiệp hoạt động xã hội nhân sinh, xây dựng đất nước theo tinh thần nhập thế vốn có ở đạo Phật tự ngàn xưa. Mạng lưới giáo dục này từ đó liên tục phát triển với nhiều tỉnh thành khắp nước, ở cả ba cấp học. Đến năm 1975, đất nước hòa bình, mạng lưới lại hoàn toàn bị giải thể.
Năm 1952, Ngài tạm nghỉ việc Hội, chuyên tâm giáo dục Học Tăng tại Phật Học Đường Báo Quốc. Cuối năm 1956, Phật Học Viện Trung Phần thành lập tại Nha Trang, Ngài thân làm Giám Viện. Năm 1957, thấy đa số Tăng Ni của Phật Học Viện đã đến tuổi thọ giới, Ngài cho mở giới đàn và thân làm đàn chủ.
Để ổn định kinh tế tự túc ở Phật Học Viện, Ngài cho một số Tăng theo học cách thức chế biến và mở hãng sản xuất xì-dầu (nước tương), hương đèn, dấm ăn, xà phòng, sử dụng sức lao động của nội chúng và Phật Tử chưa có việc làm gần chùa. Hầu hết Học Tăng của Phật Học Viện đều được Ngài cho học cả hai chương trình nội điển và thế tục. Nhờ hướng đào tạo đó mà nơi đây đã là nguồn cung cấp liên tiếp những Chánh Đại Diện Giáo Hội các tỉnh, quận, hoặc giảng sư, trụ trì, hiệu trưởng, giám học các trường Bồ Đề, quản lý nhà in, nhà phát hành kinh sách… khắp miền Trung. Về sau, một số đã trở thành giảng sư, giáo sư đại học trong ngành văn hóa giáo dục phục vụ đạo và đời.
Năm 1960, Ngài tạo mãi miếng vườn ở quận Gò Vấp, Sài Gòn, khai kiến Tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1962, Ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo Việt Nam tại miền Nam tham dự đại lễ thế giới kỷ niệm năm 2.500 Đức Phật nhập Niết-bàn, tại vương quốc Lào.
Phật Đản năm 1963, khởi đầu thời Pháp Nạn, Ngài về Huế cùng các vị lãnh đạo Phật Giáo hướng dẫn phong trào tranh đấu bảo vệ đạo pháp và dân tộc cho đến khi bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giữ. Ngày 1.11.1963, chế độ bạo quyền sụp đổ. Qua cơn Pháp Nạn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, được thành lập với 11 tập đoàn các hệ phái Phật Giáo toàn miền Nam và miền Bắc Việt Nam di cư, Ngài được bổ nhiệm vào Ban Dự Thảo Hiến Chương Giáo Hội. Trong nhiệm kỳ đầu, Ngài đảm nhiệm Tổng Vụ Hoằng Pháp. Công việc hoằng pháp và giáo dục Tăng Ni là mối quan tâm hàng đầu của Ngài. Ở nhiệm vụ và vai trò này, Ngài đã mở ba Đại Hội Hoằng Pháp: một tại Phật Học Viện Nha Trang, một tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn và một tại chùa Ấn Quang, (Chợ Lớn). Hoạt động và thành tích hoằng pháp đều tổng kết ghi lại trong ba tập kỷ yếu Đại Hội. Ngài còn thành lập Giảng Sư Đoàn và cắt cử mỗi vị phụ trách một tỉnh để diễn giảng Phật pháp cho tín đồ. Về sau, Ngài còn thành lập Phật Học Viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.
Năm 1964, Ngài thân làm Viện Trưởng Viện Cao Đẳng Phật Giáo thành lập tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Đây là tiền thân của Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ngài còn chủ trương các tập san Tin Phật, Bát Nhã để gióng tiếng pháp cho đời. Năm 1965, sau khi ổn định mọi Phật sự, Ngài hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Hồng Kông, Đài Loan, giao thiệp với nhiều danh tăng các nước.
Sau thời làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, Ngài lại được Giáo Hội trao giữ nhiệm vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài Chánh. Năm 1968, Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính thức cử hành lễ tấn phong Hòa Thượng. Cùng năm này, Ngài khai giới đàn tại Phật Học Viện Nha Trang. Năm 1969, Ngài đại trùng tu Tổ đình Báo Quốc.
Từ Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5 và 6, Hòa Thượng giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đến năm 1975 kiêm Phụ Tá Đức Tăng Thống cho đến khi đất nước và đạo pháp chuyển qua giai đoạn lịch sử mới.
Năm 1976, Hòa Thượng lại tổ chức Đại Giới Đàn Quảng Đức tại Tổ đình Ấn Quang, Chợ Lớn.
Trước chiều hướng mới và cũng thể theo ý hướng thống nhất mà xưa nay Phật Giáo Việt Nam vẫn thường ấp ủ. Sau hòa bình, trong cương vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng đã liên lạc chư tôn túc lãnh đạo các hệ phái và các tổ chức Phật Giáo khác trong cả nước, bàn bạc việc thống nhất Phật Giáo Việt Nam. Chính đây là nguyện vọng chung của toàn thể Tăng Ni và Phật Tử. Nguyện vọng này đã thể hiện cụ thể tại Đại Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 7 họp tại chùa Ấn Quang, Chợ Lớn ngày 23.1.1977 gồm 160 đại biểu của 54 đơn vị trong Giáo Hội mà Hòa Thượng nhân danh Viện Trưởng tân nhiệm đã ký thông bạch 7 điểm trong đó có điểm thứ sáu nguyên văn như sau: “Đại Hội cẩn ủy Giáo Hội Trung Ương tiếp tục vận động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần đạo pháp và truyền thống dân tộc”.
Sau khi Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo thành hình, Hòa Thượng được bầu làm Trưởng Ban Vận Động và khi Hội Nghị Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa Thượng đắc cử Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.
Những năm cuối của báo thân, tuy tuổi già sức yếu, Hòa Thượng vẫn không xao lãng việc đạo, việc đời. Năm 1979 và 1982, dẫn đầu đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự Đại Hội thứ 5 và thứ 6 của tổ chức Phật Giáo Châu Á Vì Hòa Bình tại Mông Cổ. Năm 1980 làm trưởng đoàn đại biểu tôn giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981 làm trưởng đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo thế giới vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân tổ chức tại Liên Xô, cũng năm này kiến tạo thêm chánh điện Tu viện Quảng Hương Già Lam. Năm 1983 dự hội nghị các vị đứng đầu Phật Giáo năm nước Châu Á tổ chức tại Lào.
Dù bận rộn Phật sự suốt con đường hành đạo, Hòa Thượng vẫn dành thì giờ phiên dịch kinh, biên soạn sách để hoằng dương giáo hóa. Các tác phẩm chính gồm:
- Kinh Phổ Môn.
- Kinh Phổ Hiền.
- Mẹ Hiền Quán Âm.
- Kinh Vô Thường.
- Kinh A Di Đà.
- Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
- Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng.
- Kinh Bất Tăng Bất Giảm.
- Pháp Môn Tịnh Độ.
- Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
- Luật Tỳ Kheo.
- Luật Bồ Tát.
- Luật Tứ Phần.
- Luận Khuyến Phát Bồ Đề Tâm.
- Nghi Thức Truyền Giới Bồ Tát Tại Gia và Thập Thiện.
- Nghi Thức Phật Đản.
- Nghi Thức Lễ Sám Buổi Khuya.
- và các tác phẩm khác đã in hoặc chưa in…
Thâm hiểu và cảm thông nghiệp lực nhân sinh, lân mẫn chúng Tăng Ni không giữ trọn nguyện ước thanh quy giới luật phải hoàn tục sống đời thế gia, Hòa Thượng lập Chúng Dược Vương để quy tụ và sinh hoạt với số đông Phật Tử vốn đã có thời gian ươm mầm hộ trì chánh pháp này.
Mãn báo thân 76 tuổi đời, 56 hạ lạp; vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 2 tháng 4 năm 1984 (nhằm ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) Hòa Thượng thị tịch tại Quảng Hương Già Lam, quàn tháp tại đây chờ di quan phụng Tổ tại Tổ đình Báo Quốc theo nguyện ước lúc sinh tiền.
Thư Viện GĐPT trình bày và nhuận sắc từ “TÂM NHƯ TRÍ THỦ”
Bia tưởng niệm & tháp bia Cố Hòa Thượng Trí Thủ