Tiểu sử Thánh Tử Đạo: Đại Đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu ngày 13.8.1963

Đại Đức Thích Thanh Tuệ xuất thân trong một gia đình trung nông, có truyền thống Phật Giáo, Thầy thế danh là Bùi Huy Chương, sinh năm 1946 tại làng Ba Khê, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là ông Bùi Dư, thân mẫu là bà Hoàng Thị Phục. Hai ông bà đã quy y và hết sức sùng kính Tam Bảo. Mẹ mất từ lúc Thầy lên 10 tuổi. Cụ ông ở vậy nuôi con. Thầy có 2 chị gái lớn và 1 anh trai là Bùi Cầu, quân nhân. Sau Thầy còn 1 em trai út.

Năm lên 7 tuổi, Thầy theo học trường làng. Năm lên 10 tuổi, Thầy thi đỗ tiểu học và cũng trong năm này, Thầy khá trưởng thành về mọi mặt, nhất là mặt tri thức và tình cảm.

Về mặt tri thức: Thầy đã sớm biết suy tư về kiếp sống vô thường, chứng kiến khá sâu sắc trong những tháng ngày bơ vơ tình mẹ.

Về mặt tình cảm: Thầy rất khát vọng tình người, vì khi lớn khôn, Thầy không được nâng niu cưng dưỡng, sưởi ấm trong bàn tay âu yếm của mẹ hiền như những bạn bè đồng lứa khác.

Từ năm lên 13 tuổi, Thầy thường theo thân phụ đi chùa lễ Phật, nghe giảng Phật pháp và cũng kể từ đó, Thầy đã cảm hoài đạo Phật, chí nguyện xuất gia bắt đầu chớm phát. Thầy là Đoàn Sinh Gia Đình Phật Tử Ba Khê , tỉnh Quảng Trị.

Vì hâm mộ đạo lý nhà Phật, nên năm lên 14 tuổi (1960), Thầy xin phụ thân xuất gia học đạo, Thầy từ biệt thân quyến lên đường, đến chùa Phước Duyên, thuộc xã Hưng Long, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên bái yết Hòa Thượng Đảnh Lễ xin được hành điệu. Thấy Thầy tuy tuổi nhỏ, nhưng rất có chí khí và nguyện lực, nên Hòa Thượng chấp nhận cho xuất gia ban Pháp danh là Thanh Tuệ.

Trong thời gian hành điệu, Thầy tỏ ra cần mẫn, siêng năng tu học, tư cách rất đĩnh đạc, chí khí cao khiết, vì thế, nên đã được Hòa Thượng Đảnh Lễ chăm sóc giáo dục kỹ lưỡng.

Năm 15 tuổi, Thầy được Hòa Thượng cho theo học các lớp Sơ – Trung Đẳng tại Phật Học Viện Báo Quốc, Huế và đồng thời heo học các lớp phổ thông trung học tại trường Bồ Đề Thành Nội, Huế.

Năm 16 tuổi, Thầy được Hòa Thượng Đảnh Lễ cho làm đệ tử với đệ tử trưởng tử của ngài là Thượng Tọa Thích Tánh Hải và cũng chính trong năm này, Thầy được truyền thọ Sa-di giới với Pháp danh Quảng Trí, Pháp tự Thích Thanh Tuệ.

Năm 17 tuổi (1963), Đại Đức thi đỗ trung học Đệ Nhất cấp với hạng bình thứ. Vốn tính tình rất ôn hòa và hiền hậu nên Đại Đức được ngài Thích Đảnh Lễ, trụ trì chùa Cu Võ Đức Phú rất thương yêu. Đặc biệt là Đại Đức rất hiếu thảo với cha mẹ, thường tỏ ý thương tiếc từ mẫu đã quá vãng sớm. Hằng năm đến ngày rằm tháng 6 là ngày giỗ mẹ, dầu cho bận việc thế nào, Đại Đức cũng về quê tại Hải Lăng, tụng kinh niệm Phật ngày đêm để cầu siêu cho mẹ. Cũng chính trong năm 1963 này, Đại Đức đã chứng kiến cảnh đàn áp Phật Giáo Đồ của chế độ Ngô Đình Diệm. Phật Giáo Việt Nam bắt đầu dấn thân vào khúc quanh lịch sử vô cùng bi thảm và hùng tráng.

Nhằm thể hiện lý tưởng nhất thừa, noi gương ngài Dược Vương Bồ Tát và kế tục truyền thống giữ nước, vệ đạo của các thế hệ Phật Tử Việt Nam anh hùng tiền bối, các ngọn lửa đại hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức, Đại Đức Thích Nguyên Hương đã bừng lên để soi đường cho Tăng Ni, Phật Tử Việt Nam hành động hợp lý. Đại Đức Thích Thanh Tuệ cũng kế tục ngọn lửa đại hùng ấy, đã tự thiêu ngày 13.8.1963, (nhằm ngày 24 tháng 6 năm Quý Mão) để đẩy mạnh lòng bất khuất, kiên cường đấu tranh của Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam.

Đại Đức tự nguyện chết cho mọi người được sống trong tự do tín ngưỡng, Đại Đức tự nguyện chết để yêu cầu chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm đáp ứng 5 nguyện vọng của Phật Giáo Đồ Việt Nam. Đêm trước ngày tự thiêu, 12.8.1963, Đại Đức viết 4 bức thư để lại, một cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một cho Tăng-Tín Đồ Phật Giáo, một cho Bổn Sư và Phật Tử bổn tự, và một cho gia đình. Thư của Thầy viết rất gọn gàng, vắn tắt. Trong bức thư gởi đến Tổng Thống lúc bấy giờ, Đại Đức yêu cầu chấm dứt việc khủng bố, áp bức Phật Tử và phóng thích hết những người bị giam giữ. Thầy còn hàm ý rằng chính sự nhục mạ và càn rỡ của bà Ngô Đình Nhu sẽ làm cho chính quyền sụp đổ và đưa Phật Giáo Đồ đến thành công. Đại Đức viết:

“Tôi, Tăng Sinh Thích Thanh Tuệ, 17 tuổi, kính gởi đến ông những nguyện vọng độc nhất trước khi tôi về cõi Phật:

  1. Hãy chấm dứt mọi tình trạng khủng bố và áp bức Phật Giáo Đồ và thả gấp tất cả những Phật Tử bị bắt giam kể từ ngày mồng 8 tháng 5 năm 1963 đến nay.

  1. Hãy giải quyết thỏa đáng gấp những nguyện vọng của Phật Giáo Đồ đã nêu trong các biểu ngữ.

  1. Triệt để không cho bà Ngô Đình Nhu lên đài phát thanh, tiếng nói Việt Nam Cộng Hòa để nhục mạ Phật Giáo, báng bổ cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức, vì việc làm ấy không những không làm giảm giá trị của Phật Giáo, mà trái lại gây sự căm phẫn trong quần chúng”.

Bức thư gởi cho Tăng Ni và toàn thể tín đồ Phật Giáo Việt Nam, Đại Đức nói:

“Trước khi về cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý Ngài lời chào tối hậu và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam Bảo, Bồ Tát Quảng Đức, liệt vị Thánh Tử Đạo gia hộ quý Ngài pháp thể khinh an để đoàn kết chặt chẽ sau lưng Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết và Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tranh đấu cho nền tín ngưỡng của dân tộc và yêu cầu chính phủ thực thi những nguyện vọng tối thiểu mà quý Ngài đã ghi trong các biểu ngữ, trong các báo chí Phật Giáo”.

Đại Đức đã tiên liệu trước, sau sự tự thiêu của mình, gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn do chính quyền tạo ra bằng cách mua chuộc, hoặc khủng bố nên Đại Đức đã viết bức thư gởi gia đình như sau:

“Con chết đi, Cậu phải đương đầu với mọi đe dọa, nhưng Cậu đừng sợ, đừng xiêu lòng khi họ dùng những mánh lới khác, mà Cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật Giáo, dù cho bản thân tứ đại của Cậu phải bị diệt vong.

Lần cuối cùng, con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ và quý anh, chị, em họ hàng thúc bá nội ngoại xa gần lời chúc vĩnh biệt, trước khi con về cõi Phật”.

Trước ngày tự thiêu 9 hôm, tức là ngày mùng 4.8.1963, nhằm ngày rằm tháng 6 là ngày giỗ mẹ, Đại Đức cùng ngài trụ trì Thích Đảnh Lễ về quê nhà. Đại Đức tụng niệm suốt đêm ngày để cầu siêu cho mẹ và cũng là lần chót Đại Đức từ giã gia đình về cõi Phật.

2 giờ khuya 13.8.1963, trong lúc thầy Bổn Sư đi vắng, trước tam quan ngôi chùa Phước Duyên hẻo lánh xứ Huế, ngọn lửa đại hùng của Thích Thanh Tuệ bừng lên làm tỏa rạng cả một bầu trời đen thẳm. Tăng Ni Phật Tử các nơi nghe tin ấy, tấp nập kéo về chùa Phước Duyên như thác đổ trước khi nhân viên công lực hay tin. Họ đến vừa là để chiêm bái, cầu nguyện, vừa để bảo vệ và rước nhục thân của Đại Đức đến Tổ đình Từ Đàm tổ chức tang lễ. Nhưng cảnh sát đã không cho phép đưa di thể người Học Tăng trẻ tuổi về Từ Đàm. Chính quyền bấy giờ đã ra lệnh cho các tùy viên mật vụ, công an, cảnh sát, tấn công một cách tàn bạo vào đoàn người di chuyển nhục thân của Đại Đức, việc xô xát diễn ra trong cuộc đàn áp khiến 25 người dân trong làng đã bị thương, trong số đó có 5 người phải chở đi bệnh viện. Công an đã cướp thi hài của Đại Đức chở đi mất tích khi đoàn rước mới di chuyển đi ngang qua khu vực chùa Linh Mụ.

Những kẻ bạo tàn có thể cướp mất di thể của Đại Đức, nhưng không bao giờ cướp mất được ý chí tự chết cao cả của Người; không bao giờ cướp mất được lòng ngưỡng mộ tôn kính của hàng lớp người đối với Người; không bao giờ xóa tan được ý chí tự chết đầy kiêu hãnh, hào hùng của Đại Đức trong dòng lịch sử của Đạo Pháp và Dân Tộc Việt.

Đại Đức chết để đi vào huyền sử, để trở thành bất tử trong lòng người. Chết để nói lên rằng, kẻ yêu chuộng chân lý không bao giờ khuất phục trước bạo tàn. Chấp nhận cái chết là chấp nhận sự đấu tranh để bảo vệ chân lý đến cùng. Tự chết để đấu tranh là sự tranh đấu cao nhất của kẻ bị áp bức, mất hết mọi quyền tự do của mình. Đại Đức nguyện tự chết để cho lương tâm, lương tri và tình người sớm được phát sanh nơi tâm hồn bạo chúa đã bị chai lì.

Trước cái chết như thế, tờ báo Le Monde của Pháp ra ngày 12.6.1963, đã có lời nhận định về sự tự thiêu của các Thánh Tử Đạo Phật Giáo Việt Nam: “Tự sát để đấu tranh, kẻ táo bạo nhất cũng phải lùi bước”.

oOo

theo 50 năm chấn hưng Phật giáo của HT Thích Thiện Hoa

Bài khác nên xem

Đức Phật dạy con như thế nào

phuocthanh

Giới thiệu tóm lược luận A-tỳ-đạt-ma Đại-tỳ-bà-sa – Tuệ Sĩ

phuocthanh

BHD GĐPT KonTum tổ chức trại Du Khảo – Dã ngoại

phuocthanh