Những nguyên lý căn bản của Phật giáo

 

( Tài liệu Tu học Ngành Thiếu – Bậc Chánh Thiện

do BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam tu chỉnh năm 2006 – PL 2550 )

 

I. DẪN NHẬP :

Đức Phật thuyết pháp 49 năm, lưu lạị cả một kho tàng giáo lý đồ sộ. Trải dài trên 2500 năm qua  với bao nhiêu nghiên cứu, đánh giá của các nhà triết học, khoa học, học giả Đông Tây đều công nhận trong toàn bộ giáo lý của đức Thế Tôn một sự sâu sắc về luân lý, một sự nghiệm mật về tư tưởng, Đối với khoa học không những không xung đột mà còn cùng với khoa học chứng minh tính vĩnh hằng và tính chân thật của nó. Trong đó giáo lý TAM PHÁP ẤN được xem như là nguyên lý căn bản của giáo lý Phật đà.

II. NỘI DUNG :

1. Định nghĩa :

–    Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu.

–    Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển.

2. Định danh :

* Theo Tự điển Phật học Huệ Quang ( nhà xuất bản tổng hợp TP. HCM – 2005 cuốn V, t. 4127 )

–    Các hành vô thường (tiếng Phạn :Anityãh sarva-samskãrãh); nhất thiết vô thường ấn; nhất thiết hữu pháp vô thường ấn hay gọi tắc là Vô thường ấn : Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian nói chung đều vô thường, chúng sanh không biết rõ nên đối với vô thường mà chấp là thường, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

–    Các pháp vô ngã (tiếng Phạn : Nirãtmanah-sarva-dharmãh); nhất thiết pháp vô ngã ấn hay gọi tắc là Vô ngã ấn : Tất cả các pháp hữu vi, vô vi ở thế gian nói chung đều vô ngã, chúng sinh không biết rõ nên đối với tất cả các pháp gượng lập chủ tể, vì thế Phật nói vô ngã để phá trừ chấp ngã của chúng sinh.

–    Niết bàn tịch tĩnh (tiếng Phạn : Satamnirvãnam) Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết bàn ấn hay gọi tắc là Niết bàn ấn : Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ sinh tử cho nên khởi nghiệp hoặc tạo nghiệp. trôi lăn trong 3 cõi, vì thế Phật nói pháp Niết bàn để tịch diệt.

* Theo Tự điển Phật học Hán Việt (nhà Xuất bản Khoa học Hà Nội – 1998) :

–    Chư thường vô thường ấn : hết thảy pháp hữu vi niệm niệm sinh diệt đều là vô thường.

–    Chư Pháp vô ngã ấn : hết thảy mọi pháp hữu vi hay vô vi đều không có thực tế của ngã.

–    Niết bàn tịch tĩnh ấn: Pháp Niết bàn diệt mọi khổ đau về sinh tử luân hồi.

Như vậy Tam Pháp ấn có nghĩa là 3 khuôn dấu của chánh pháp. Hay nói cho đủ nghĩa Tam pháp ấn là ba nguyên lý căn bản  của chánh pháp gồm VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ VÀ NIẾT BÀN. Ba nguyên lý hay tính chất này xác định tính chính thống và đích thực của giáo lý đạo Phật nhằm đảm bảo mọi suy tư, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người Phật tử không vượt ra ngoài mục tiêu giải thoát mà Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết. Mọi giáo lý không có ba nguyên tắc trên đều không phải của đạo Phật. Như vậy, Vô thường, Vô ngã và Niết Bàn được xem như là ba dấu ấn xác định, chứng nhận tính chính thống của giáo lý đạo Phật. Mọi giáo lý của đạo Phật đều phải mang ba dấu ấn đó. Chính vì tính chất quan trọng này mà Tam pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ kinh tạng Nam truyền đến Bắc truyền và cả trong các bộ luận quan trọng như luận Đại Trí Độ của Bồ tát Long Thọ. Tóm lại Tam pháp ấn là giáo lý mang tính pháp định trong hệ thống giáo lý của Phật giáo. Ngoài ra, trong kinh tạng A Hàm, đôi khi Đức Phật cũng dạy về Tứ pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết bàn (kinh Tăng Nhất A Hàm – phẩm Tăng thượng thứ 23). Tuy nhiên, đấy chỉ là sự triển khai của Tam pháp ấn. Bởi lẽ, Niết bàn chỉ là tên gọi khác của vô ngã như Hòa thượng Thích Thiện Siêu đã khẳng định: “Niết bàn là một cái gì tuyệt đối không dung ngã… Hữu ngã và luân hồi mà vô ngã là Niết bàn” (Vô ngã là Niết bàn, tr.65). Tứ pháp ấn đôi khi cũng được phát biểu là vô thường, khổ, vô ngã và không (kinh Tăng Nhất A Hàm – phẩm Thất tà tụ thứ 2). Cũng như trên, “không” vẫn chỉ là một cách nhìn khác về các điều kiện duyên khởi của mọi sự, mọi vật. Một hữu thể được gọi là vô ngã hoặc không vì bản chất của nó là do điều kiện nhân duyên tạo thành. Do vậy, có thể xem vô thường, vô ngã và Niết Bàn là một định thức chuẩn mực, tổng quát của Tam pháp ấn.

3. Hành tướng Tam Pháp Ấn hay là ba nguyên lý căn bản của Phật giáo

a. Nhất thiết hành Vô thường ấn:

Pháp ấn đầu tiên hay nguyên lý đầu tiên là vô thường. Vô thường, tiếng Phạn là Anitya, hàm nghĩa sự biến đổi, thay đổi, không cố định. Mọi giáo lý, học thuyết nó không mang dấu ấn này thì khơng phải là Phật pháp.

Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian do các tập hợp duyên sanh đều mang tính vô thường. Nói cách khác, vô thường nghĩa là sự vật không mang tính đồng nhất bất biến. Hòn núi là một tập hợp duyên sanh, thân thể con người là một tập hợp duyên sanh, lá cây rụng bên đường là một tập hợp duyên sanh, cho đến hạt bụi nhỏ cũng là tập hợp do duyên mà hiện hữu. Do vậy, hòn núi, thân thể con người, lá cây, hòn sỏi, hạt bụi… đều luôn biến đổi, không bao giờ có tính đồng nhất và phải chịu sự tác động của vô thường. Mọi sự, mọi vật trong thế giới hiện tượng từ các vật thể vĩ mô đến các thế giới vật chất hạt cực nhỏ vi mô như nguyên tử, hạt proton, hạt neutron… luôn biến chuyển, thay đổi liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, không chỉ trong thế giới vật chất mà ngay cả trong thế giới tâm thức, vô thường vẫn luôn có mặt.

–    Trong đạo Phật, con người là sự cấu hợp của hai thành phần Danh và Sắc, hay phần tinh thần – các trạng thái tâm lý và phần vật chất – thân thể sinh -vật lý, và hai thành phần này luôn ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối chảy mãi không ngừng trong đời sống con người. “Nó giống như giọt sương buổi sáng tan đi khi mặt trời vừa mọc; nó giống như bọt nước, như một dòng thác cuốn trôi đi tất cả những gì nó gặp và trôi chảy mãi không ngừng; nó giống như một con vật tại lò sát sanh, lúc nào cũng đương đầu với cái chết” (Tăng Chi Bộ kinh III, tr.70). Mọi hoạt động, vận hành tâm lý: cảm giác, tri giác, tình cảm, tư duy… của con người luôn tồn tại trong khoảng thời gian cực ngắn mà đạo Phật gọi là sát na.Trong khoa tâm lý học, các biến chuyển trạng thái tâm lý theo thời gian được chia làm hai loại là thường biến tâm lý và đột biến tâm lý.

–    Thường biến tâm lý là sự thay đổi các trạng thái tâm lý theo những phản xạ chức năng của ý thức và tập quán nghiệp. Ví dụ như vui thì cười nhưng sau đó buồn thì khóc lóc, ưu sầu. Thành đạt thì vui mừng, thất bại thì đau khổ, buồn rầu…

–    Đột biến tâm lý là sự biến đổi tâm trạng đột ngột trong khoảng thời gian rất ngắn. Tần số dao động tâm diễn ra rất nhanh. Ví dụ như trạng thái tâm dao động, tán loạn trong khi gặp các sự cố nguy hiểm: nhà cháy, người thân qua đời….

Thường biến hay đột biến tâm lý đều phản ánh tính vô thường trong phương diện tinh thần của đời sống con người.

Thế nhưng hiện tượng vô thường không tất yếu đưa đến khổ – pháp ấn thứ hai. Trong đoạn kinh ở phần dẫn trên, nếu chỉ hiểu đơn giản rằng hễ vô thường là khổ, thì khi đó giáo lý vô thường không còn là một khuôn dấu của chánh pháp nữa. Trong thực tế, nếu không có vô thường thì sẽ không thể có sự sống và không thể có sự phát triển. Nếu hạt thóc giống thường tại thì nó không bao giờ trở thành cây lúa cho ra những hạt gạo trắng được, nếu sự vật không vô thường thì lịch sử tiến hóa của nhân loại sẽ khơng thể có và nền văn minh nhân loại sẽ chỉ luôn tồn đọng ở thời kỳ đồ đá cũ. Và nếu không có sự tác động của vô thường thì chúng ta sẽ không bao giờ có hy vọng đoạn tận các tập khí tham ái phiền não đang tiềm ẩn sâu kín trong nội tâm chúng ta. Do vậy, giáo lý vô thường đem lại niềm tin cho mọi nỗ lực sáng tạo và phát triển của con người. Vô thường là đặc chất đích thực của sự sống.

b. Nhất Thiết Pháp Vô ngã Ấn:

Pháp ấn thứ hai hay nguyên lý thứ hai là Vô ngã. Vô ngã là giáo lý đặc biệt quan trọng trong Phật giáo. Giáo lý này là hệ quả thẩm sát liên tục các nguyên lý duyên khởi – vô thường. Vô thường là tính thay đổi trong khi vô ngã là tính không đồng nhất. Khi một cái gì do nhân duyên mà thay đổi thì nó không còn tính chất đồng nhất, do đó nó vô ngã, hay về bản chất nó không có chủ thể riêng biệt. Ví dụ nói cái bàn là vô thường là bởi vì chúng ta thấy rõ nó đang thay đổi, đang biến hoại dần dần về hình thức; nhưng nói cái bàn là vô ngã thì chúng ta phải nhìn bằng cái nhìn duyên khởi. Trong cái nhìn đó, cái bàn là một tập hợp của các điều kiện nhân duyên, của cây gỗ, của công sức người thợ… Nhiều hệ tư tưởng khác cũng đã đề cập đến ý niệm vô thường. Chẳng hạn, khi đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước đang trôi chảy, Đức Khổng Tử đã viết: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ?“, nghĩa là “Trôi chảy hoài, ngày đêm không thôi, như thế này ư?”. Héraclite cũng nhìn tính vô thường qua dòng sông nhưng với góc độ khác: “Bước xuống cùng một dòng sông, thường gặp phải những dòng nước mới. Linh hồn cũng thoát ra từ nơi ẩm ướt” (Theo Triết học Hy Lạp – La Mã, Viện KHXH TP HCM, 1994). Cả Nho gia và triết học phương Tây nhìn chung tuy có ý niệm về tính vô thường, nhưng dường như không có ý niệm về tính vô ngã trong vạn sự, vạn vật. Do đó, có thể nói giáo lý vô ngã của Đức Phật là một giáo lý mang tính cách mạng rất vĩ đại. Ngay trong bài pháp thứ hai tại vườn Nai, kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhana sutta), Đức Phật đã dạy tính vô ngã trong thân năm uẩn của con người: “Này các thầy, sắc (rùpa: thể chất, thân thể vật lý) này là vô ngã. Này các thầy, nếu trong sắc có ngã như vậy, sắc không phải chịu đau khổ và ta có thể ra lệnh “sắc phải như thế này hay phải như thế kia“. Nhưng vì sắc không có ngã (vô ngã), nên sắc này còn phải chịu khổ đau và không thể có trường hợp (ra lệnh) “sắc này phải như thế này hay sắc phải như thế kia”. (Tương Ưng Bộ kinh III, tr.66).

Các uẩn còn lại: thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), hành (các trạng thái tâm lý và thái độ tâm lý), thức (nhận thức) cũng tương tự. Cả năm uẩn tạo thành một ý niệm giả tạo về một “cái ngã” hay một hữu thể chúng sanh đồng nhất, không thay đổi. Từ đó rất dễ dàng sanh ra tâm lý tham đắm, mê say, ôm ấp, bảo thủ và chấp chặt vào những gì thuộc về năm uẩn (ngã sở). Thế nhưng, mọi hữu thể hay ngã thể ấy luôn chuyển biến theo quy trình tương quan duyên khởi. Sự sinh thành và hoại diệt trong hình thể và ngay trong bản chất của năm uẩn là kết quả của các điều kiện nhân duyên và quá trình sanh – già – bệnh – chết, hay hình thành – tồn tại – thay đổi, hoại diệt – tiêu hủy, luôn là chân lý công ước cho mọi con người và mọi loài, mọi vật.

Một lần, tại thành Xá Vệ, Đức Phật cũng dạy các thầy Tỳ kheo về tính vô ngã trong một vật thể nhỏ bé như miếng phân bò: “Này các thầy, cho đến một ngã thể nhỏ như thế này cũng không thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại, vĩnh viễn thường hằng, thường trú. Nếu có một ngã thể nhỏ như thế này, này các thầy, là thường còn, thường hằng… thường trú, thì đời sống phạm hạnh để chơn chánh đoạn tận khổ đau không thể trình bày (Tương Ưng Bộ kinh III, phẩm Hoa, tr.259). Sự thiếu suy tư, cân nhắc trong hành vi đối với thực tại vô ngã của vạn sự, vạn vật thường là nẻo đường dẫn đến các phiền lụy, tham ái – nguyên nhân gần dẫn đến khổ đau. Pháp ấn vô ngã không những xác định tính pháp định của chánh pháp mà còn là đặc tính riêng biệt trong giáo lý đạo Phật. Chính vì tầm quan trọng này, VÔ NGÃ được xem là pháp ấn thứ hai trong Tam pháp ấn.

c. Niết bàn tịch diệt ấn :

Pháp thứ ba hay nguyên lý thứ ba là Niết bàn. Tất cả chúng sanh không rõ biết khổ sinh tử nên khởi hoặc tạo các nghiệp trôi lăn trong sinh tử luân hồi, vì thế Phật nói Pháp Niết bàn tịch diệt.

Như vậy, khổ sinh tử cần được xem là một vấn đề thường trực trong thực tại cuộc đời và cả trong ý thức của người Phật tử mà đức Thế Tôn đã triễn khai nhằm giúp chúng sanh nhận thức rõ cùng với con đường thoát ly mọi sự ràng buộc của khổ đau.

Trước hết Đức Phật đã diễn tả sự khổ đau của con người như một sự bùng cháy, đổ vỡ của toàn thể thế giới: “Toàn thể thế giới bốc cháy, toàn thể vũ trụ đắm chìm trong khói lửa, tòan thể vũ trụ làm mồi cho lửa, tòan thể vũ trụ run lập cập” (kinh Tương Ưng Bộ, tr.133). Khổ là một sự thật mang tính phổ biến và hiện diện với nhiều hình thái đa dạng. Cách nhìn này được Đức Phật dạy trong bài pháp cực kỳ quan trọng, kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana sutta), cho năm vị đệ tử đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, mà khổ đau được trình bày qua 8 hiện tượng là: 1- Sanh là khổ. 2- Già là khổ. 3- Bệnh là khổ. 4- Chết là khổ. 5- Buộc lòng phải sống chung với người mình không ưa thích là khổ. 6- Phải xa lìa những người thân yêu là khổ. 7- Mong muốn mà không được là khổ. 8- Chính thân ngũ uẩn là khổ. Trong các kinh về sau, khổ được phân biệt thành ba loại là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Cách nhìn này đơn giản hơn và có thể giúp ta tìm căn nguyên của khổ.

–    Khổ khổ (Dukkha dukkhata) có nghĩa là một cảm thọ khó chịu (khổ thọ). Ví dụ như cảm giác đau đớn vì một chiếc răng hư là một khổ thọ, trời lạnh mà không có áo ấm thân thể run lập cập là một khổ thọ, chứng kiến sự ra đi vĩnh viễn của người thân yêu là một khổ thọ, bị người khác chọc giận làm thương tổn đến danh dự, tức đến đỏ mặt tía tai là một khổ thọ… Nói chung, những cảm giác bất an trong thân thể vật lý và các trạng thái tâm-sinh lý đều là khổ thọ, loại khổ thứ nhất.

–    Hoại khổ (Vinarupamam dukkhata) có nghĩa là những thứ vốn không khổ nhưng khi tiêu hoại thì sẽ tạo ra khổ. Ví dụ: khi còn trẻ, thân thể chúng ta rất khỏe mạnh, nhưng khi tuổi già đến, thân ta sẽ suy nhược, lá gan của ta hiện giờ không bệnh nhưng theo thời gian nó sẽ yếu, sẽ bệnh, sẽ mất khả năng làm tiêu chất cholesterol. Nụ cười và khuôn mặt rạng rỡ ngày hôm nay có thể sẽ biến mất để nhường chỗ cho những giọt nước mắt ưu sầu ở ngày mai. Hễ có sinh thành là có hoại diệt. Ý tưởng này dễ đưa tới những cách nhìn bi quan. Do vậy, những thứ bây giờ tốt cách mấy cũng mang sẵn mầm khổ trong ấy. Nói cách khác, sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, sự biến hoại trong cơ chế tâm-sinh-vật lý của con người đem lại sự bất an, bứt rứt, không an tịnh trong tư duy và tình cảm là hoại khổ.

–    Hành khổ (Samskhara dukkhata): Hành là các hiện tượng kết tập các điều kiện nhân duyên mà thành. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, có hai câu mà Đức Phật luôn nhấn mạnh “chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp“, có nghĩa là những thứ gì do nhân duyên tạo thành, sinh ra đều là vô thường, đều thuộc về thế giới tương đối, thế giới của sanh và diệt, của luân hồi sanh tử. Thân thể, thế giới bên ngoài thân ngũ uẩn, hòan cảnh sống, các trạng thái tâm lý của con người như đã nói đều là nhân duyên sanh nên phải chịu sự tác động của vô thường. Vô thường, thay đổi thì thế nào cũng đưa đến khổ. Cho nên trong các hành, các hiện tượng đều chứa sẵn hạt giống của khổ hay gọi là hành khổ.

Tóm lại, chúng ta chỉ có thể trị được bệnh khi ý thức là chúng ta đang bệnh. Cũng vậy, giải thoát khổ đau chỉ trở thành hiện thực khi người Phật tử biết ý thức và thực nghiệm về khổ đau trong cuộc sống nội tại. Một khi không nhận chân về chân tướng của cuộc đời và nuôi dưỡng ảo tưởng cuộc đời là hạnh phúc, bị buộc ràng trong cuộc sống vật chất dễ dãi, chúng ta rất dễ đánh mất đi mục đích tu tập của mình. Can đảm nhìn thẳng vô khổ đau để giải quyết, đó là nhận thức căn bản. Như hoa sen được nuôi dưỡng bằng đất bùn, lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng nhận thức căn bản ấy. Toàn bộ hệ tư tưởng, đạo học của Phật giáo cũng được bắt nguồn từ nhận thức ấy, vì chỉ có ai nhận thức được sự diệt tận lửa phiền não mới đạt được cảnh giới giác ngộ, mà cảnh giới giác ngộ chính là mục đích thực tiễn nhất của Phật giáo.

Bởi ngay trong khi tuyên thuyết thời pháp đầu tiên Đức Thế Tôn đã dạy: “Này các thầy, Như Lai đã dạy các thầy những gì? Như Lai đã dạy các thầy các sự thật về đau khổ, nguyên nhân đau khổ, đoạn diệt đau khổ và con đường đi đến diệt khổ. Tại sao Như Lai dạy các thầy các chân lý đó? Vì chúng thật sự có ích và cần thiết để đi đến một đời sống lý tưởng, vì chúng làm cho các thầy từ bỏ mọi dục lạc, giải thoát khỏi mọi say đắm, chấm dứt mọi khổ đau, đi đến thanh tịnh, giác ngộ, Niết bàn” (Tương Ưng Bộ kinh V, tr.437). Chính vì vậy, Niết bàn được xem là một khuôn dấu của chánh pháp.

III. SUY NGHI ỆM:

Loài người từ lúc sơ khai tiến đến nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay đã không biết bao nhiêu lớp tôn giáo bị sóng của thời gian vùi dập tiêu tan. Thế nhưng, chỉ có giáo lý Phật đà là mãi mãi còn tồn tại không mảy may suy suyễn cho đến ngày hôm nay, là nhờ không dựa vào uy thế cường quyền, không phải là một giáo lý thần thoại, mà là một giáo lý vĩ đại, khách quan như thực trong đó giáo lý Tam Pháp Ấn được xem như là ba nguyên lý căn bản của giáo lý Phật giáo.

Nhận thức là thấy rõ và đánh giá về một sự kiện, còn thái độ sống thuộc về hành vi và tâm lý chủ động của con người trước sự kiện đó. Vì nhận thức đúng hay có chánh kiến đối với các hoạt động tâm – sinh – vật lý của bản thân là có cái nhìn thật rõ về ba pháp ấn vô thường – vô ngã – niết bàn. Chừng nào mọi suy tư của con người còn bị buộc ràng trong các ý niệm về sự thường trú vĩnh hằng của tự ngã và các pháp chấp sai lầm, khi đó Tam pháp ấn vẫn còn giá trị và hiện hữu giữa cõi đời. Với người Phật tử, Tam pháp ấn chính là ba chiếc chìa khóa để mở cánh cửa đi vào giải thoát, là ba phương pháp quán niệm để chuyển hóa tự thân. Và vô thường – vô ngã – niết bàn như đã trình bày cũng là các khuôn dấu, nguyên lý y cứ để hiệu chỉnh, tái thẩm định mọi lý thuyết, ngôn luận, pháp môn tu tập trong đạo Phật.

IV. TU T ẬP :

 Xác quyết niềm tin là điều tiên quyết của người Phật tử, vì chỉ có niềm tin vững chắc chúng ta mới có thể thực hành hạnh nguyện của mình một cách hòan mãn. Do vậy để niềm tin chúng ta không thể lay chuyển, cần phải tinh tấn trong tu học để chuyển hóa tự thân :

–    Thực hành  Tứ chánh cần.

–    Tập sống đời sống theo kinh Thiện Sinh.

–    Từng bước trau dồi Tứ Vô lượng tâm.

œœœ

 

Bài khác nên xem

Ý nghĩa màu lam

datthinh

GĐPT Khánh Hòa: Trại thi kết khóa năm 2017

Hội đồng tu học (BHD Cam Ranh) họp triển khai Phật sự.

Huệ Quang GĐPTVN